ARMAGEDDON SURVIVAL-PLAN - KEY. For Printed-Version please
contact JAH@JAHTruth.net.
CHÌA KHÓA- CẨM NANG – SINH TỒN TẬN THẾ. Nếu muốn ủng hộ, xin vui
lòng mua Bản-in (tiếng Anh), liên hệ JAH@JAHTruth.net
CHAPTER 8
CHƯƠNG 8
The Shining Example.
(The Light of the
world.)
Gương Sáng.
Gương Sáng.
(Ánh Sáng Của Thế Giới.)
8:1 After trying, over and over again, to teach people to
stay-away from religions, and to talk ONLY to Him for guidance; having
already sent enlightenment to the many Prophets; God decided that the only solution was to send Prince Michael, and put Him
in a human-animal, to show the way YOU have to be, to be able to
go home.
8:1 Sau khi cố gắng, rất nhiều lần, để dạy mọi
người tránh xa tôn giáo, và
nói chuyện CHỈ với Ngài để được dạy dỗ, và (sau khi) đã gửi sự khai sáng cho
nhiều Nhà tiên tri, Thiên
Chúa quyết định rằng giải pháp duy nhất
là gửi Hoàng Tử Michael/Mai-cồ, và đặt Ngài (Mai-cồ/Đấng như
Thiên Chúa) trong một động vật-người (con người/xác phàm), để chỉ cách CÁC
CON phải làm, để có thể
về nhà.
8:2 So that people would know Jesus was special, God arranged the
“miracle” Virgin-birth and sent a spaceship, to guide shepherds to the stable,
and, later-on, Druid-kings to their house, so people would know that
he was here. The kings, on returning to their own countries, would tell people
what they had seen, and the news would spread.
8:2 Để mọi người sẽ nhận biết Chúa
Giêsu đặc biệt, Thiên Chúa sắp
xếp "phép lạ" Trinh Nữ sanh con và gửi một tàu vũ trụ, hướng dẫn các người chăn chiên đến chuồng ngựa
(Chúa sanh ra nằm trong máng cỏ trong chuồng ngựa), và, về
sau, (hướng dẫn) các nhà
chiêm tinh/các bác sĩ (từ dịch dùng
trong KT Công Giáo/Tin lành) đến nhà họ, để mọi người sẽ biết rằng Chúa Giêsu đã ở đây. Các vị vua (được dịch là
các nhà chiêm tinh/các bác sĩ trong bản dịch KT Công Giáo/Tin lành), khi trở lại các quốc gia của mình, sẽ loan báo với mọi người những gì họ đã nhìn thấy, và tin tức đó sẽ được truyền đi.
8:3 The “STAR” of Bethlehem was a spaceship; it could not possibly have been a star. Can
you tell when a star is over a stable? You can not even tell when a star is
over a large country, never-mind a tiny stable. Remember too, that the “STAR” guided people who were walking, or on camels.
8:3 "NGÔI SAO" của Bết-lê-hem chính là một con tàu vũ trụ (UFO); thật vô lý nếu nó là một ngôi sao. Làm sao con biết được một
ngôi sao đang ở trên chuồng ngựa? Con
thậm chí không thể biết khi một ngôi sao đang ở trên một đất nước rộng lớn, đừng nói chi một chuồng ngựa nhỏ
bé. Cũng nên nhớ, rằng "NGÔI SAO" đã chỉ
đường cho những người đi bộ, hoặc
cưỡi lạc đà.
8:4 This was all done to show people: look; this man is different;
take notice of him, and listen to what he says. What DID he say?
“I AM THE WAY” (home).
8:4 Làm vậy chỉ để nói với mọi người: nhìn
xem; người này thật khác biệt, hãy để ý anh ta, và lắng nghe những gì anh ta nói. Anh ta ĐÃ nói gì?
"TA LÀ ĐƯỜNG VỀ" (nhà).
"TA LÀ ĐƯỜNG VỀ" (nhà).
8:5 I am the way, that each and every one of you has to be, before you can come home (John 10:7-9 & 14:2-6).
8:5 Ta là phương cách (the way còn có nghĩ
như vậy), mà mỗi một các con phải theo, trước khi các con có thể về nhà (Gioan/Giăng 10:7-9
& 14:2-6).
8:6 The Jewish people had become so evil, and arrogant (Ex. 33:5), with their customs and religious doctrines and traditions, that they refused to accept that Jesus was the promised Messiah, and that he brought the Living Word (John 1:1-5) of God (Mark 7:7-9). This shows how the devil uses your ego, to fool you.
8:6 Những người Do Thái đã trở nên quá tội
lỗi, và kiêu ngạo (Xuất hành/Xuất
Ê-Díp-Tô Ký 33:5), với các
phong tục và các giáo lý tôn giáo và
các tín ngưỡng truyền thống của
họ, đến nỗi họ đã từ chối chấp nhận rằng Chúa Giêsu là Đấng
Cứu Thế đã được tiên tri, và
rằng Chúa đã mang đến Lời Hằng Sống (Gioan/Giăng 1:1-5) của Thiên Chúa (Máccô/Mác 7:7-9). Điều này cho thấy ma quỷ thực sự sử dụng cái tôi của con, để lừa con.
8:7 Jesus disappeared, after his birth and the Druids’ visit, for
more than 30 years, with the single exception of when he was 12 years old (Luke 2:42), at the Feast of
the Passover, when he was talking to the priests in The Temple, and amazing
them, with his great knowledge.
8:7 Chúa Giêsu đã biến mất, sau ngày sanh của Chúa và chuyến viếng thăm của các vị vua, trong hơn 30 năm, ngoại trừ một lần duy nhất khi Chúa được 12 tuổi (Lu-ca 2:42), tại Lễ Vượt Qua
(cách tính và thông tin liên qua xin tham khảo ở đây: http://bornagainfreeman.ning.com/events/passover-feast-of-unleavened-bread), khi Chúa nói chuyện với các linh mục/các thầy tế trong Đền Thánh, và làm họ ngạc nhiên, với kiến thức tuyệt vời của Chúa.
8:8 He disappeared, because he had to learn, in private, exactly what it was like, to submit to human limitations, and to be, to all intents and purposes, a normal human+being.
8:8 Chúa đã biến mất, bởi vì Chúa cần phải học, riêng, một cách chính xác, những giới hạn khi ở trong cơ thể người là gì, và làm, với tất cả các ý nghĩa và mục đích, một nhân + linh bình thường.
8:9 He had to learn everything, about all the different types and
degrees of temptation, and how to overcome them. If he didn’t, he could not
possibly help others, to overcome theirs, or be able to complete his mission.
Before you can help anyone, you have to not only understand their problem, but
how to solve it too. To do that, you have to have solved it yourself, many
times over.
8:9 Chúa đã phải học tất cả mọi thứ, về mọi loại và mọi mức độ cám dỗ khác nhau, và làm thế nào để vượt qua chúng.
Nếu không như vậy, Chúa làm sao có thể giúp đỡ những người khác, để vượt qua các
cám dỗ của họ, hay có thể hoàn thành sứ mệnh của Chúa. Trước khi con có thể giúp đỡ người khác, con không chỉ phải hiểu vấn
đề của họ, mà còn phải biết làm
sao để giải quyết nó nữa. Để làm được điều đó, con phải tự mình giải quyết nó, rất nhiều lần trong quá khứ.
8:10 He had to experiment with women, and had to learn how to
resist their temptation, because his mission was far too important, to let
anyone, or anything, get in the way.
8:10 Chúa còn phải hiểu biết phụ nữ,
và phải học cách làm sao để cưỡng lại cám dỗ của họ, bởi vì nhiệm vụ của Chúa thật quá quan trọng, để (có
thể) cho bất cứ ai, hoặc bất cứ điều
gì, cản đường.
8:11 He needed time, to get used to controlling his human-animal-body, that Mary’s body had made, and that he was locked-inside-of. He had to learn to control it, to such a fine degree, that he could not be tempted, by love for a woman, into failing to complete his mission. Satan sent as many beautiful, sexy women as possible, to try to pull him away, and even offered to give him the whole world, if he would serve him, instead of God.
8:11 Chúa cần thời gian, để quen với việc kiểm soát cơ thể-động vật-người, mà cơ thể Maria đã tạo ra, và cũng là cơ thể Chúa bị nhốt ở trong. Chúa đã phải học cách kiểm soát nó, ở mức độ tốt nhất, để Chúa không thể bị cám dỗ, bởi tình yêu dành
cho một người phụ nữ, dẫn đến
việc không hoàn thành sứ mệnh. Satan
đã gửi nhiều người đẹp, quyến rũ
nhất có thể, cố gắng cám dỗ Chúa,
và thậm chí đã đề nghị cho Chúa
cả thế giới, nếu Chúa chịu phục tùng hắn, thay vì Thiên Chúa.
8:12 Jesus obviously could not start His work, until his body was
in its late-thirties, because, as a teenager, no-one would take him seriously, and he would be far too
inexperienced, in worldly-matters, to be able to cope with abuse and ridicule,
without losing his temper. Jesus’ ministry was NOT from 30-33 years of age, but from 33-40 (Dan.
9:27) years of age. Today’s calendar is seven years out (in arrears) and this
year is actually 1993 A.D., not 1986. As it was; even in his late-thirties; he
could not get the majority of the people to take him seriously.
8:12 Chúa Giêsu rõ ràng không thể bắt đầu sứ
mệnh của Chúa, cho đến khi cơ thể của Chúa ở vào độ tuổi cuối ba mươi, bởi vì, khi là một thiếu niên, không ai có thể nghiêm túc
nghe Chúa, và Chúa sẽ quá thiếu kinh nghiệm, trong
các vấn đề thế gian, để có thể đối
phó với sự lợi dụng và giễu cợt, mà không mất bình tĩnh. Sứ vụ của Chúa Giêsu KHÔNG phải từ 30-33 tuổi, mà từ 33-40 tuổi (Đanien/Đa-ni-ên 9:27). Lịch ngày nay mất (còn thiếu) bảy năm và năm nay (năm sách này được viết) thực ra là 1993 sau Công nguyên, chứ không phải 1986. Như nó đã xảy ra, thậm chí ở độ tuổi cuối ba mươi, Chúa còn không thể
làm cho đa số mọi người nghiêm túc lắng nghe.
8:13 Once his training was completed, he started to teach people
to leave organized-religion, and go into their closets to speak to God. Jesus
was pulling people away from the church and their organized religion, and was
teaching them by the sea and on the mountain-sides, and the priests were losing
their prestige, and the respect of the people, and their power over the people,
and they were also losing MONEY. The churches’ lucrative business was crumbling, so they had to find a way to stop
Jesus, and they tried to trick him, into saying something, for which they could
prosecute him (by their own laws/legislation, NOT God’s Laws) and have him
killed; but he was far too clever for them (Mark 12:13 & Luke 11:54 &
20:20).
8:13 Một khi quá trình học tập của Chúa hoàn tất, Chúa bắt đầu dạy cho mọi người
rời xa tổ chức tôn giáo, và tìm
nơi yên tĩnh riêng tư để nói chuyện với Thiên Chúa (dịch ý).
Chúa Giêsu đã kéo mọi người ra
khỏi nhà thờ và tổ chức tôn giáo của
họ, và đã giảng dạy họ
ngoài bờ biển và trên các sườn núi,
và các linh mục bị mất thanh thế của họ, và sự kính trọng từ
người dân, và quyền lực của họ trên
dân chúng, và họ cũng bị mất TIỀN. Công việc kinh doanh đầy lợi nhuận của nhà thờ bị sứt mẻ, vì vậy họ đã tìm cách để ngăn chặn Chúa Giêsu, và họ đã cố gắng
để lừa Chúa, nói một điều gì đó, để họ có thể truy tội Chúa (dùng luật pháp của chính họ/sự tự đặt luật lệ, KHÔNG PHẢI Luật Pháp của
Thiên Chúa) và có cớ để giết Chúa,
nhưng Chúa quá thông minh so
với họ (Máccô/Mác 12:13 & Luca 11:54 & 20:20).
ARMAGEDDON SURVIVAL-PLAN - KEY. For Printed-Version please
contact JAH@JAHTruth.net.
CHÌA KHÓA – CẨM NANG – SINH TỒN TẬN THẾ. Các câu hỏi thắc mắc, vui
lòng liên hệ JAH@JAHTruth.net
8:14
The priests, who CLAIM to represent God, were trying to murder God’s Son, “LEGALLY”, when God says you must not murder. I say “LEGALLY”, referring to their customs and traditions (the Talmud), that
they had made up themselves, to allow themselves to break God’s Laws. They made
up their own laws, thereby making God’s Laws obsolete (ineffective - Mark 7:9,
13), and gave THEMSELVES the right (?) to murder Jesus (Hosea 4:6)(John 16:1-4).
8:14 Các linh mục, những kẻ TỰ NHẬN là đại diện cho Thiên Chúa, đã cố gắng để giết Con
Thiên Chúa, "MỘT
CÁCH HỢP PHÁP", trong khi Thiên Chúa truyền dạy các con không được giết người. Ta nói "MỘT
CÁCH HỢP PHÁP", là đề cập đến các phong tục và truyền thống của họ (sách Talmud), mà họ đã tự đặt ra, để
tự cho phép họ vi phạm các Luật Pháp của Thiên Chúa.
Họ đặt luật riêng cho mình, từ
đó làm cho Luật Pháp của Thiên Chúa trở nên như lỗi thời (không còn hiệu quả - Máccô/Mác 7:9, 13), và tự cho CHÍNH HỌ cái quyền (?) giết Chúa Giêsu (Hôsê/Ô-sê 4:6)(Gioan/Giăng 16:1-4).
8:15
Today the situation is many times WORSE, because of men having made up so many thousands, of their
own laws, to enable themselves (the rich) to break God’s Laws, that mankind has
forgotten that God’s Laws (the Royal Perfect Laws of Liberty) even EXIST. God’s Laws; Statutes and Judgements; etc., are the ONLY ones that exist, and ALL
of today’s, many THOUSANDS of UNLAWFUL human laws/legislation and judgements, do not exist, as far as God is concerned; except in your minds
(Matt. 5:18). Do NOT be fooled — God is not mocked, for whatsoever a man sows, THAT shall he also reap (Galatians 6:7).
8:15 Ngày nay tình trạng này thật muôn lần TỒI TỆ hơn, bởi vì con người đã tự tạo ra hàng ngàn, luật lệ riêng của họ, để cho phép mình (người giàu) vi phạm Luật Pháp của Thiên Chúa, đến nỗi nhân loại đã quên rằng Luật Pháp của Thiên Chúa (Bộ Luật Hoàng Gia Tự Do
Hoàn Hảo) thậm chí còn TỒN TẠI. Luật Pháp của Thiên Chúa; các Điều Lệ và các Phán Xét,… là các luật pháp DUY NHẤT thực sự tồn tại, và TẤT CẢ các luật lệ
ngày nay, nhiều NGÀN luật lệ/sự tự đặt luật lệ và các phán xử BẤT HỢP PHÁP của con người, là không hề tồn tại, trong
mắt của Thiên Chúa; chúng chỉ
tồn tại trong tâm trí của các con (Mátthêu/Ma-thi-ơ 5:18). ĐỪNG để bị lừa hay TỰ lừa
mình - Thiên Chúa không phải
để nhạo báng, bởi những gì con gieo, ĐÓ
là những thứ con sẽ gặt (Galát/Ga-la-ti 6:7).
8:16
Anyone making up, administering or enforcing UNLAWFUL
human laws/legislation and judgements,
will be SEVERELY punished by God. The other people; who permit the making up
of UNLAWFUL human legislation and judgements; punish themselves, because
of the effect, that these UNLAWFUL
and UNJUST
laws have, on society. Men’s UNLAWFUL and UNJUST laws/legislation also punish the innocent, more than the
guilty.
8:16 Bất cứ ai tạo ra, thi hành hay áp đặt các luật lệ/sự lập pháp và các phán xử BẤT HỢP PHÁP của
con người, sẽ bị nghiêm trị NẶNG bởi Thiên Chúa. Những kẻ khác; những ai cho phép việc lập ra các luật lệ và các phán xử BẤT HỢP PHÁP của con người; tự trừng phạt bản thân, bởi những tác
hại (dịch ý), mà các luật lệ BẤT HỢP PHÁP và BẤT CÔNG đó gây nên, cho xã hội. Các luật lệ/sự lập pháp BẤT HỢP PHÁP và BẤT
CÔNG còn trừng phạt những người vô tội, nhiều hơn những kẻ
phạm tội.
8:17
Jesus gave the parable (illustrative story), of the vineyard (world), and the
owner of the vineyard (God), and the husbandmen or workers (priests), and the
servants of the owner (the Prophets), and the son of the owner (Prince
Michael/Christ - Matt. 21:31-46 & Mark 12:1-13 & Luke 20:9-21).
8:17 Chúa Giêsu đã ban cho câu chuyện ngụ ngôn (câu chuyện để minh
họa), vườn nho (thế giới), và chủ sở hữu của vườn nho (Thiên Chúa), và những
người trồng nho hay người lao động/nông dân (các linh mục), và các tôi tớ của chủ sở hữu (các
Nhà tiên tri), và con trai của chủ sở
hữu (Hoàng Tử Michael/Chúa –
Mátthêu/Ma-thi-ơ 21:31-46 &
Máccô/Mác 12:1-13 & Luca 20:9-21).
8:18 Through the parable of the vineyard, Jesus was foretelling, that the priests, who had beaten and murdered God’s Prophets (messengers), would murder His Son, and that God will destroy the priests and non-believers in “The Fire” on the Last-Day, if they do not repent. The Jewish people have never repented, because they refuse to accept, that Jesus was God’s Son, incarnated, and to follow His teachings and example.
8:18 Qua câu chuyện ngụ ngôn vườn nho, Chúa Giêsu đã báo trước, rằng các
linh mục, những kẻ đã đánh đập
và sát hại các Nhà tiên tri của
Thiên Chúa (các sứ giả), sẽ
giết Con của Ngài, và rằng Thiên Chúa sẽ tiêu diệt các linh mục và những ai không tin (vào
tình yêu, lẽ thật, và những điều tốt đẹp) bằng "lửa Trời" vào
Ngày-Cuối, nếu họ không hối cải.
Những người Do Thái chưa bao giờ hối cải, bởi vì họ từ chối chấp nhận, rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, nhập thể/hiện thân, và làm theo lời dạy và gương của Chúa.
8:19
The New Testament is ABSOLUTELY FULL, of messages against priests; their organized religions;
lawyers and politicians.
8:19 Sách Tân Ước thật NHIỀU VÔ SỐ KỂ, các thông điệp chống lại các linh mục; các
tổ chức tôn giáo của họ, các luật sư và các chính trị gia.
8:20
It was the PRIESTS and their RELIGION, that had Jesus nailed on the cross; leaving a PERMANENT testimony to the world, of how priests and
organized-religions belong to Satan, and had murdered the human-animal, that
was worn by Christ, God’s Son.
8:20 Chính vì các LINH MỤC và TÔN
GIÁO của họ, mà Chúa Giêsu đã bị đóng đinh trên thập tự giá, để lại một VĨNH chứng cho thế giới, rằng các linh mục và các tổ chức tôn giáo thuộc
về Satan, và đã sát hại thân xác người (Giêsu), mà
được mang bởi Chúa, là Con của Thiên Chúa.
8:21
Just HOW obvious does it have to be, before you
can see
the TRUTH?
After all Jesus said, and went through
on the cross, to show that organized-religion is wrong; there are more
religions today, than ever before.
8:21 Thật sự cần phải làm rõ như THẾ NÀO nữa, trước khi các con có thể nhìn ra được SỰ THẬT? Sau tất cả những
gì Chúa Giêsu nói, và đã trải qua
trên thập giá, để chỉ ra rằng
tổ chức tôn giáo là sai lầm, thì
ngày nay càng có nhiều tôn giáo, hơn
bao giờ hết.
8:22 You can be sure that on Prince Michael/Christ’s second-coming, when he brings the SAME message again (the message and truth will NEVER change), all the priests in the world (Satan’s unwitting employees), and especially the pope, will be the first to call him insane and a blasphemer. The pope will probably try to excommunicate him, and tell him that he (Prince Michael) will never go to heaven, for saying that God is his Father. What a joke! It is the pope who will NEVER go to heaven. Heaven is Christ’s home, He is the Prince of heaven. The pope, however, is a servant of Satan and will burn, with him.
8:22 Các con có thể chắc chắn rằng khi
Hoàng Tử Michael/Chúa trở lại
lần thứ hai, khi Chúa mang theo CŨNG thông điệp xưa một lần nữa (thông điệp và sự thật sẽ KHÔNG BAO GIỜ thay đổi),
tất cả các linh mục trên thế giới (các nhân viên của Satan,
mà không ý thức được), và đặc biệt
là giáo hoàng, sẽ là những kẻ đầu
tiên gọi Chúa là bị khùng và là một người ăn nói báng bổ. Giáo hoàng có thể sẽ cố rút phép thông công Chúa, và nói với Chúa rằng Chúa (Hoàng Tử Michael) sẽ
không bao giờ được lên thiên
đàng, vì dám nói rằng Thiên
Chúa là Cha của mình. Thật là một trò hề! Chính thật giáo hoàng là kẻ sẽ KHÔNG BAO GIỜ được lên thiên đàng. Thiên đàng là nhà của
Chúa, Chúa là Hoàng Tử trên thiên đàng. Giáo hoàng, bởi, là một tôi tớ của Satan và sẽ bị đốt chết, cùng hắn.
8:23
The priests all have their very lucrative businesses to protect, and their
position of respect, and power over the people, to protect too.
8:23 Các linh mục tất cả đều cần bảo vệ công việc kinh doanh rất hấp dẫn của họ, các vị trí được tôn trọng của họ, và tầm
ảnh hướng tới mọi người, cũng cần được bảo vệ nữa.
8:24
On the second-coming, Christ will not
be called Jesus, because he will have a
new human-name (Rev. 3:12), and he will, first of all, try to
peacefully destroy ALL organized-religions. The priests and religious people will
say that he is the false prophet, but it is organized-religion, and its false
interpretations and teachings, that is the false prophet, as it ALWAYS has been. Hopefully he will succeed, whilst in human-form,
because THIS TIME it will NOT
just be a gesture, but a LAST chance, and the Last-Day will be right behind him (Sura
43:61), and you will already have had almost 2000 years, to get it RIGHT and go home.
8:24 Vào lần trở lại thứ hai, Chúa sẽ không
được gọi là Giêsu nữa, bởi vì
Chúa sẽ có một tên người mới (Khải-huyền
3:12), và Chúa sẽ, trước
hết, cố gắng dẹp hết TẤT CẢ các tổ chức tôn giáo một
cách hòa bình. Các linh mục và những người sùng đạo sẽ nói rằng Chúa là một vị tiên tri giả, nhưng chính ra tổ chức tôn giáo, và các giải
thích và giáo lý sai lầm/giả của nó, mới thực là một vị
tiên tri giả, như nó LUÔN như vậy. Hy vọng rằng Chúa sẽ thành công, trong khi ở trong nhân dạng
người, bởi vì LÚC ĐÓ, nó sẽ KHÔNG chỉ là một hành động thiện ý, nhưng là một cơ hội CUỐI, và Ngày-Cuối sẽ ở ngay sau đó (Sura 43:61), và các con đã có gần 2000 năm, để làm cho ĐÚNG và trở về.
ARMAGEDDON SURVIVAL-PLAN - KEY. For Printed-Version please
contact JAH@JAHTruth.net.
CHÌA KHÓA – CẨM NANG – SINH TỒN TẬN THẾ. Giải đáp thắc mắc với
EliJah JAH@JAHTruth.net
8:25 You are still here. Why? If I were you; I would be very worried and be doing my UTMOST, to be like Jesus. Perhaps you all WANT to die?
8:25 Các con vẫn còn ở đây. Tại sao? Nếu Ta là con; Ta sẽ rất lo lắng và sẽ làm HẾT
SỨC của mình, để được như Chúa Giêsu. Có lẽ các con đều MUỐN chết?
8:26 Christ explained everything; about where he (and you) came from; and what you each have to do, to go home. He explained that he was the soul, inside the “son of Mary”, and that he was zillions of years old, when the body, that he was using, was less than 50 years old (John 1:15 & 8:57-58 / King of kings’ Bible, John 8:48-49 & 17:24). He also explained that Mary was NOT his mother, and that her body, only made the body, that he was using (John 6:42 & Matt. 12:47-50; 22:45 & Mark 3:31-35 & Luke 8:19-21), but that she did NOT make him.
8:26 Chúa đã giải thích tất cả mọi thứ; về nơi Chúa (và các con) xuất
thân; và những gì mỗi một các
con phải làm, để về nhà. Chúa đã giải thích rằng Chúa là linh hồn, bên trong "con trai của Maria", và rằng
Chúa không thể đếm tuổi (đã tồn
tại rất lâu), trong khi cơ thể, mà Chúa lúc đó sử dụng, là ít hơn 50 tuổi (Gioan/Giăng
1:15 & 8:57 - 58/"Kinh Thánh Vua của các vua", Gioan/Giăng 8:48-49 & 17:24). Chúa cũng giải thích rằng Maria KHÔNG phải là mẹ của Chúa, và cơ thể của bà, chỉ tạo nên cơ thể, mà Chúa đã sử dụng
(Gioan/Giăng 6:42 &
Mátthêu/Ma-thi-ơ 12:47-50; 22:45 & Máccô/Mác 3:31-35 & Luca 8:19-21), chứ bà KHÔNG tạo ra Chúa.
8:27 CHRIST explained that, not only was he NOT Jewish, but that he was not from this planet
(John 7:34-36 & 8:23 / King of kings’ Bible, John 8:14; 17:14 & 18:36),
and about the spirit, being spirit, and the flesh, being flesh (John 3:6), and
that the spirit is the ONLY thing which is important
(John 6:63), and that the body is worthless.
8:27 CHÚA đã giải thích rằng, Chúa
không chỉ KHÔNG phải là người Do Thái, nhưng Chúa còn không phải đến từ hành tinh này (Gioan/Giăng 7:34-36 & 8:23 /"Kinh Thánh Vua của các vua", Gioan/Giăng 8:14, 17:14 & 18 : 36), và về linh hồn, là thuộc linh, và xác thịt, là phàm tục (Gioan/Giăng 3:6), và rằng linh hồn là thứ DUY NHẤT là thực sự
quan trọng (Gioan/Giăng 6:63), và rằng
cơ thể thì không có giá trị
gì.
8:28 “Let the dead bury their dead”, which means that those people, that honour the body and the persons of men (kings; queens; presidents; priests; etc.; etc.), and worldly-treasures, and thereby are still condemned to death, should bury what THEY value. A dead body is only a worthless lump of dead meat, that never was a person, just an animal-body that they used, and the REAL person is still alive (their soul); but only until the Last-Day (Matt. 8:22). People are only sad at funerals, for selfish reasons, i.e. because they feel sorry for themselves. They should feel glad for the person whose body has died, because they have moved-on, to their next lesson.
8:28 "Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ", có nghĩa là những ai, mà coi
trọng cơ thể và các chức danh (các vua chúa, hoàng hậu; các tổng thống, các linh mục, vv ...), và các vật báu thế gian, và do vậy vẫn còn trong án chết, cứ chôn những thứ
HỌ yêu
chuộng. Một xác chết chỉ như
một miếng thịt chết vô giá trị, không bao giờ là một nhân linh, chỉ là một cơ thể động vật mà họ đã sử dụng rồi, và linh dạng THẬT thì vẫn còn sống (linh hồn họ), nhưng chỉ đến Ngày-Cuối (Mátthêu/Ma-thi-ơ 8:22). Mọi người chỉ buồn ở đám tang, vì những lý
do ích kỷ, đó là bởi họ cảm thấy
tiếc cho chính họ. Họ nên cảm
thấy vui mừng cho ai mà cơ thể
đã chết, bởi vì kẻ đó đã ra đi, đến bài học kế tiếp (đầu thai kiếp mới).
8:29 Do not be afraid of those who can kill your body, fear only
those who can kill your soul, on the Last-Day (Matt. 10:28 & Luke 12:4-5),
i.e. God and His soldiers (guardian angels).
8:29 Đừng sợ những ai có thể giết chết cơ thể con, chỉ sợ những ai có thể giết chết linh hồn con, vào Ngày Cuối (Mátthêu/Ma-thi-ơ 10:28 & Luca 12:4-5), tức là Thiên Chúa và các thiên binh của Ngài (các thiên thần hộ mệnh/giám ngục).
8:30 Seek the truth and you will find it. How can you expect to find the truth, when you are not seeking (Luke 11:9-13), and are wasting all your time, watching soap-operas and sport on television, or are looking in the wrong places, i.e. organized-religions?
8:30 Hãy tìm
kiếm sự thật và con sẽ
tìm được nó. Làm sao
con có thể mong đợi tìm ra sự thật,
khi con không đi tìm (Luca
11:9-13), và đang lãng phí thời gian của mình, xem các loại phim truyền hình nhiều tập và thể thao trên tivi, hoặc đang tìm kiếm sai chỗ, tức là ở các tổ chức tôn giáo?
8:31 Jesus told you EVERYTHING that
you NEED to know, including that, IF you earned your right to go home, you would be angels again (Matt. 22:30 & Luke 20:34-36 & John
10:34), and about reincarnation (Luke 20:38)(John 9:2).
8:31 Chúa Giêsu đã nói với các con MỌI
THỨ mà các con CẦN biết, bao gồm cả, NẾU các con xứng
đáng nhận được quyền trở về, các
con sẽ lại là các thiên thần như
xưa (Mátthêu/Ma-thi-ơ 22:30 & Luca 20:34-36 & Gioan/Giăng 10:34), và về sự đầu thai/kiếp luân hồi (Luca 20:38)(Gioan/Giăng 9:2).
8:32 He said which planet is heaven (Rev. 2:28 & 22:16 / K. of
k. 30:16), which was confirming Isaiah 14:12, “How you are fallen from heaven, Lucifer
(Satan/Iblis), son of the Morning (Star)!” (king James version, which is the AUTHORISED version, and the second most accurate), which
was confirmed again later, by the Koran (Sura 53:49 & 86:1-4).
8:32 Chúa đã cho biết hành tinh nào là thiên đường (Khải-huyền 2:28 & 22:16/KT Vua các vua 30:16), và được xác nhận ở Isaia/Ê-sai 14:12, "Làm sao ngươi rơi từ trên trời/thiên đàng, Lucifer/Lu-xi-phơ
(Satan/Iblis), con trai của sớm Mai (Sao)!" (Phiên bản Vua
James, đó là phiên bản được CHO PHÉP, và chính xác thứ nhì), mà được xác nhận lại sau này, bởi kinh Koran (Sura
53:49 & 86:1-4).
8:33 He told you exactly what you HAVE to do, to EARN the right to go home: “I AM the door, NO man goes home to God, except if he is like me” (John 10:7-9); “I AM The Way (home), the truth and the life” (John 14:2-6), which means:- I am the way you have to be; what I am telling you is the truth; and I am The Way to eternal-life (immortality).
8:33 He told you exactly what you HAVE to do, to EARN the right to go home: “I AM the door, NO man goes home to God, except if he is like me” (John 10:7-9); “I AM The Way (home), the truth and the life” (John 14:2-6), which means:- I am the way you have to be; what I am telling you is the truth; and I am The Way to eternal-life (immortality).
8:33 Chúa đã nói với các
con chính xác những gì các
con PHẢI làm, để XỨNG
ĐÁNG giành quyền trở về: "TA LÀ cửa/cổng, KHÔNG ai về nhà với Thiên Chúa,
trừ khi anh ấy như Ta" (Gioan/Giăng 10:7-9); "TA LÀ Đường Về (nhà), sự thật/lẽ thật và sự sống" (Gioan/Giăng 14:2-6), có nghĩa là: - Ta là ví dụ (mà) các
con phải (làm) theo; những gì Ta nói cho các con là sự thật,
và Ta là Đường tới cuộc sống vĩnh
cửu (sự bất tử).
8:34 Greater love than this has no man; that he lays down his life
(human-life), for his friends (John 15:13). Jesus did it for his enemies, i.e.
all of you (Luke 9:55).
8:34 Không có tình thương nào cao cả hơn tình
thương của người đã hy sinh tính mạng mình (tính mạng người) vì bạn hữu của mình (Gioan 15:13)/Chẳng có sự yêu thương nào lớn
hơn là vì bạn hữu mà phó sự sống mình (Giăng 15:13) [trích từ 2 bản dịch của công giáo và tin lành]. Chúa Giêsu đã làm vậy cho kẻ thù của mình, tức là tất cả các con (Luca 9:55).
8:35 He that loves his life, in this world, and likes being an animal, and collecting worldly treasures and wealth, shall lose his soul (die in The Fire, on the Last-Day), and he who hates his human-life, in this world, and doesn’t like being an animal, and having worldly wealth, at the expense of others, and who always fights for good, no matter what the cost, shall win his freedom; immortality and right to go home (John 12:25 & Mark 8:34-38)(Sura 16:104-111).
8:35 Ai mà yêu quý cuộc sống của họ, trong thế giới này, và thích được làm một con vật, và thu thập các kho báu
thế gian và làm giàu, sẽ đánh mất linh hồn của họ (chết trong Lửa Trời, vào Ngày Phán Xét), và
ai mà ghét cuộc sống con người
(thân phàm/cái tôi) của họ,
trong thế giới này, và không muốn giống như một con vật, và có của cải vật chất thế gian, bằng
mồ hôi nước mắt của kẻ khác, và những ai luôn đấu tranh cho cái tốt, bằng mọi giá/không sợ phải trả giá, sẽ giành được sự tự do của họ; sự bất tử và quyền được trở về nhà
(Gioan/Giăng 12:25 & Máccô/Mác 8:34-38) (Sura
16:104-111).
8:36 It is easier for a camel to go through the eye of a needle,
than for a rich man (worldly-wealth) to go to heaven (Matt. 19:24).
8:36 Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu (của cải thế gian) vào Nước Thiên Chúa (Mátthêu/Ma-thi-ơ 19:24).
8:37 Do not collect treasures on Earth, where moths and rust destroy them, and thieves break-in and steal them. Earn treasures in heaven, where they are safe for ever; which means: earn favour with God, by being and doing like Jesus, and thereby earn your pardon, and go home to heaven.
8:37 Chớ
nên góp nhặt các kho báu trên Đất, nơi nhậy và rỉ sét tiêu hủy chúng,
và kẻ trộm lẻn vào và ăn cắp
chúng. Tìm lĩnh/lãnh các kho
tàng trên trời, nơi mọi thứ
an toàn mãi mãi; có nghĩa là:
tìm nhận ân điển của Thiên Chúa, bằng cách noi gương như Chúa Giêsu, và qua đó nhận được sự cứu rỗi của mình, và trở về nhà ở trên thiên
đàng.
8:38 Why exchange your right to go home to heaven, and to live for
ever, for ALL the treasure in this world (Luke 16:19-31), that
you can never keep (Luke 12:19-21), and certain-death? What good will it do you, to own the whole world, for a few years, and
pay for it by losing your immortal soul, for ever? “All the money you made will
never buy back your soul.” EVERYTHING,
in this temporary world, is NOT worth ONE soul (Zephaniah 1:18).
8:38 Tại sao đổi quyền trở về thiên đàng của mình, và (quyền) được sống đời đời, để lấy TẤT CẢ kho tàng trên thế gian này (Luca 16:19-31), mà con không bao giờ có thể giữ (Luca 12:19-21), và cái chết-không thể tránh? Nó có lợi gì cho con, ngay khi làm
chủ cả thế giới, trong một vài năm, và trả giá cho điều đó bằng việc đánh mất linh hồn bất diệt của
mình, mãi mãi? "Tất cả của
cải con làm ra sẽ không bao giờ mua lại
được linh hồn con." MỌI THỨ, trong thế giới
tạm bợ này, thật KHÔNG đáng MỘT linh hồn (Xôphônia 1:18).
8:39 The American-Indians had it right, until the greedy white-man went and ruined everything
for them. The white-men went to America to have a fresh-start, and to leave all
the things they disliked, behind them. Instead of which, they took it all with
them, and then inflicted it on the Indians. The white-men lied, and cheated the
Indians; who were honourable and friendly people; that was when they weren’t murdering the Indians. The Indians welcomed the early
settlers and helped them to survive, teaching them what they could and couldn’t
eat, and about snakes and hunting, and survival in general. The settlers repaid
them, and their kindness, with lies, deceit and death. The Indians lived with nature, in harmony, in an idyllic existence,
until the white-man arrived, and began to systematically murder them, almost to extinction, because of greed.
Once the black-slaves were given their freedom, they complained of being
classed as second-class citizens, whilst the poor Indians, whose country it had
been for thousands of years, were not even considered to be citizens, or even
human+beings.
8:39 Những người Da Đỏ đã
làm đúng, cho tới khi những người da trắng tham lam đến và hủy hoại mọi thứ cho họ. Những
người da trắng tới Mỹ để có một sự khởi đầu mới, và bỏ tất
cả những gì họ không
thích, lại phía sau. Thay vì làm vậy, họ mang mọi
thứ theo, và sau đó áp đặt chúng lên người Da Đỏ. Những người da trắng đã nói
dối, và đã lừa ghạt những người Da Đỏ; là những người trọng danh dự và thân
thiện; đó là khi họ không tàn sát những người Da Đỏ. Người Da
Đỏ chào đón những người di
cư đầu tiên và giúp họ tồn tại, dạy
cho họ biết những gì có thể và không thể ăn được, và về các loại rắn và cách săn bắn, và những kỹ năng tồn tại (nơi hoang dã) nói chung. Những người di cư trả ơn họ, và lòng tốt của họ, bằng những lời dối, mưu
gian và cái chết. Những người Da
Đỏ sống cùng thiên nhiên, hài hòa, trong một
sự hiện hữu bình dị, cho đến khi người da trắng đến, và bắt đầu giết hại họ một cách có hệ thống, gần tới
tuyệt chủng,
bởi vì lòng tham. Một khi các nô lệ da đen được trao
trả tự do của mình, họ phàn nàn vì bị phân biệt như là công dân hạng hai, trong khi những người Da Đỏ tội nghiệp, đã
ở đó hàng ngàn năm,
thậm chí không được coi là công dân, hay
thậm chí là người (nhân + linh).
8:40 The Indians tried to teach the white-man, to live in harmony with nature, to ensure their own survival. The arrogant white settlers ignored the Indians’ advice,
calling them IGNORANT savages, and continued to destroy and pollute
the country, until the pollution became so bad, that they had to consider it a real threat. It became so bad, that, in the last generation, a new subject
emerged in universities; called ECOLOGY; which is about protecting nature and the environment. IN OTHER WORDS, it took the ARROGANT “intelligent” white-man, HUNDREDS OF YEARS, to find-out, that the “ignorant” savages/Indians were RIGHT, and much MORE intelligent than themselves.
8:40 Người Da Đỏ đã cố dạy cho người da trắng, sống hài hòa cùng thiên nhiên, để đảm bảo sự sinh tồn của chính mình. Những
người di cư da trắng kiêu ngạo bỏ ngoài tai lời khuyên của người Da Đỏ, gọi họ là những kẻ NGU SI man rợ, và tiếp tục hủy hoại và làm ô nhiễm vùng đất (dịch ý), cho đến khi tình trạng ô nhiễm trở nên thật tệ hại, đến nỗi bọn họ đã phải xem đó là một mối đe dọa thực
sự. Sự ô nhiễm đã trở nên
thật kinh khủng, tới mức, trong thế hệ cuối này, một môn học mới đã nổi lên trong các trường đại học; gọi là
SINH THÁI HỌC; nhằm nói về việc bảo vệ thiên nhiên và môi trường. NÓI CÁCH KHÁC, những người da trắng NGẠO
MẠN "thông minh"
cần đến, HÀNG TRĂM NĂM, để hiểu ra, rằng những người Da Đỏ/mọi rợ "dốt nát" đã ĐÚNG, và thật thông minh HƠN nhiều so với họ.
8:41 In more recent times, the “civilized (?)” world has “re-educated (?)” the Indians, and other underdeveloped nations,
into believing that they NEED (?) their consumer-products. The consumer-society first
of all creates a “need (?)”, and then supplies that need; just like a
drug-pusher creates a need for drugs, so that he then has a life-long customer,
for his merchandise. Addiction to material-things is very similar. Advertising
creates the need (?) and then comes the SUPPLY.
8:41 Trong mấy trăm năm trở lại, thế giới "văn minh
(?)" đã "tái giáo dục (hay nhồi sọ ?)" những người Da Đỏ, và các quốc gia kém phát triển khác, làm
cho họ tin rằng họ CẦN (?) các sản phẩm
tiêu dùng (từ thế giới văn minh/dịch ý). Một xã hội tiêu thụ trước tiên tạo ra một "nhu cầu (?)", và sau đó đáp ứng nhu
cầu đó; giống như kẻ buôn ma
túy tạo ra nhu cầu hút chích, để mà sau đó hắn ta có được
một khách hàng lâu dài, cho các
sản phẩm của mình. Thói nghiện vật chất/mua sắm cũng tương tự. Quảng cáo tạo ra nhu cầu (?) Và sau đó dẫn tới việc ĐÁP ỨNG (dịch ý).
8:42 The materialistic-society taught the Indians, and other
non-materialistic natives, of other underdeveloped (?) countries, to feel that they need material
goods, so that they then have another market for their products. The second
benefit to the big businessman and corporations, then; once they have these
peoples HOOKED on their products; is that they can use this
want, to steal from; use; abuse and manipulate the natives, away from living with God and nature, and into
learning Satan’s evil ways, i.e. serving mammon (materialism).
8:42 Xã hội vật chất/thực dụng
đã dạy cho những người Da Đỏ, và các
dân tộc bản xứ không thực dụng khác, ở các nước kém phát triển (?), cảm thấy rằng họ cần các
sản phẩm tiêu dùng, để mà sau đó tạo ra một thị trường khác (mới) cho các sản phẩm này. Một lợi ích nữa đối với các thương gia và các tập
đoàn lớn, sau đó; một khi họ đã làm cho những người này NGHIỆN các sản phẩm của họ; là họ có thể sử dụng ham muốn đó, để đánh cắp; dùng; lạm dụng và lôi kéo những người bản xứ, khỏi việc chung sống cùng Thiên Chúa và thiên nhiên, và vào việc học đòi con đường dối trá của Satan, tức là làm nô lệ cho tiền tài (chủ nghĩa vật chất).
8:43 Mahatma Gandhi understood all of this, and managed to defeat
the British, without aggression, PEACEFULLY,
by refusing to be materialistic, and teaching his people to go back to their
old ways, and not to buy British goods, which caused terrible unemployment in
Britain, and forced the British to give-in, to some of Gandhi’s wishes. Gandhi
won, by playing the British at their own game, and hitting them where it hurts
materialistic people, i.e. in their pockets.
8:43 Mahatma Gandhi đã nhìn ra tất cả những điều này, và đã biết sử dụng sự hiểu biết đó để đánh bại người Anh, bất
bạo động, MỘT CÁCH HÒA BÌNH, bằng việc từ chối tư duy thực dụng (ham muốn vật chất), và dạy người dân của mình trở về
lối sống xưa, và không mua hàng hóa Anh, việc đó đã gây ra thất nghiệp nặng nề ở Anh, và đã buộc người
Anh phải nhượng bộ, một số mong muốn
của Gandhi. Gandhi đã chiến
thắng, bằng đòn gây ông đập lưng ông (dịch ý), và đánh vào điểm yếu của những kẻ trọng
vật chất, tức là các ví tiền của họ.
8:44 Today, in various parts of the world, the natives are cutting
down vast areas of the rain-forests, destroying the forests and their natural
environment and wild-life, for money, to buy material goods that they don’t REALLY need.
8:44 Ngày nay, ở những vùng khác nhau của
thế giới, những người dân bản
xứ đang chặt phá những diện
tích lớn các rừng mưa nhiệt đới, phá hủy các khu rừng này và môi trường sinh thái tự nhiên của chúng và giới hữu sinh, vì tiền, để mua các sản phẩm tiêu dùng mà họ không THẬT SỰ cần.
8:45 The rain-forests are the world’s greatest supply of
life-giving OXYGEN, without which, the whole of mankind and nature
will die.
8:45 Các rừng mưa nhiệt đới (đa số nằm ở
các vùng nhiệt đới, nhưng không phải tất cả đều ở đó) là nguồn cung cấp KHÍ ÔXY
(cần thiết) cho sự sống nhiều nhất, nếu
không có chúng, toàn bộ nhân loại và thiên nhiên sẽ bị diệt
vong.
8:46 OXYGEN for life, in exchange for money, and death, to
buy things that they do NOT need. The rain-forests, in producing oxygen, also get rid of carbon-dioxide
from the atmosphere, so that it not only doesn’t poison everyone, but also
doesn’t cause a “green-house effect”, which will over-heat the planet, and
change all the world’s weather-patterns (2 Esdras 5:5), melt the ice-caps and
destroy everything.
8:46 KHÍ
ÔXY cần cho sự sống, (dùng) đổi lấy tiền, và cái chết, để mua những thứ mà họ KHÔNG cần. Các rừng mưa nhiệt đới, trong
quá trình sản xuất khí ôxy, còn loại bỏ khí cacbonic (CO2) từ bầu khí quyển, để nó không chỉ không đầu độc mọi người, mà còn không tạo ra "hiệu ứng nhà kính", (là hiệu ứng) mà sẽ làm trái đất
nóng lên, và làm biến đổi khí
hậu trên toàn thế giới (2 Esdras 5:5/Sách Ẩn
Kinh – không được đưa vào các bản KT đang lưu hành), làm tan chảy các đỉnh băng, và phá hủy mọi thứ.
8:47 They are selling what does NOT belong to them, to buy
death for EVERYONE. GOD owns the rain-forests and
the whole planet.
8:47 Bọn họ đang bán những thứ KHÔNG thuộc về họ, để mua cái chết cho MỌI NGƯỜI. Thiên Chúa sở hữu các rừng mưa nhiệt đới và cả hành tinh này.
8:48 These peoples have lived, quite happily, without all these
goods, for thousands of years, so why should they NEED them now?
8:48 Những người bản xứ này đã sống, khá hạnh phúc, (khi) không có tất cả các loại hàng hóa đó, qua hàng ngàn năm, do
vậy tại sao họ nên CẦN chúng lúc này?
8:49 Where is the world going to take, all of its money, to buy OXYGEN, when there is none-left?
8:49 Mua ở đâu trên thế giới này, dùng tất cả tiền của có được, khí ÔXY, khi nó
đã cạn?
8:50 First you send in missionaries, to teach them Satan’s
religions, and about all the wonderful inventions, and teach them possessiveness, and convince them that
they own the land, and then, that they need to become materialistic, and then they are HOOKED. The stage is then set for Satan to lead them
on his merry dance into “The Fire”, with you.
8:50 Đầu tiên, các con gửi các nhà truyền giáo, để dạy cho họ các tôn giáo Satan, và về tất cả các
sáng chế tuyệt vời, và dạy cho họ sự chiếm hữu, và thuyết phục họ rằng họ sở hữu đất đai, và sau đó, (nói) rằng họ cần phải
trở nên thực dụng/mê của cải,
và sau khi họ bị NHÚNG
CHÀM. Bước kế tiếp sau đó được thiết lập để Satan dẫn
dắt họ bằng điệu nhảy vui vẻ của hắn vào "lửa Trời", chung với các con.
8:51 The ONLY thing that you NEED is GOD, and to survive and go home, and anything else
is a want, NOT a NEED.
8:51 Điều DUY NHẤT mà các
con CẦN là Thiên Chúa, và làm sao để sinh tồn
và trở về, và bất cứ điều gì
khác là một sự ham muốn, KHÔNG
phải một NHU CẦU.
8:52 Before you buy anything, ask yourself, if it will help your spiritual growth, and help you to go home. If it won’t help you to be able to go home, you DON’T NEED it.
Don’t let Satan con
you!
8:52 Trước khi con mua bất cứ cái gì, hãy tự hỏi, thứ đó có thể hỗ
trợ sự phát triển tâm linh của con
không, và giúp con trở về
không. Nếu nó không làm được
như vậy, con KHÔNG CẦN nó (dịch ý).
Đừng để Satan đánh lừa con!
ARMAGEDDON SURVIVAL-PLAN - KEY. For Printed-Version please
contact JAH@JAHTruth.net.
CHÌA KHÓA – CẨM NANG – SINH TỒN TẬN THẾ. Giải đáp thắc mắc với
EliJah JAH@JAHTruth.net
8:53 You did not come here to destroy and pollute nature, and exterminate the animals; you came here to learn to be good. Man is trying to destroy nature, and the day
that he succeeds, you are all dead, and you all think you
are sane. This planet belongs to God and the animals, NOT to you, and the animals have more right to be here, than you do. It is THEIR home, NOT yours, and they have the RIGHT to survive.
8:53 Các con không phải đến đây
để phá hoại và làm ô nhiễm thiên
nhiên, và làm tuyệt chủng các loài động vật; các con đến đây để học hỏi cho nên thành. Nhân
loại đang cố hủy hoại thiên nhiên, và cái ngày mà họ thành công, tất cả các con đều chết, và tất thảy đều nghĩ mình biết phải trái. Hành tinh này thuộc về Thiên Chúa và các loài động vật, KHÔNG phải của các con, và các loài động vật có nhiều quyền ở đây, hơn các
con có. Đây là nhà CỦA CHÚNG, KHÔNG phải của các con, và chúng có QUYỀN tồn tại.
8:54 The animals are not polluting, and trying to destroy nature
and themselves, or you. Neither do they poison themselves with smoking,
drinking alcohol and taking drugs. YOU are the only ones STUPID enough to do that, and you have the audacity to call them, DUMB animals,
and to think that you are better than them, and that you have more right to be
here than they do.
What arrogance and
stupidity!
8:54 Các loài động vật không gây ô nhiễm môi trường, và cố hủy diệt thiên nhiên và bản thân chúng, hay các con. Chúng cũng chẳng tự đầu độc chúng bằng
việc hút chích, rượu chè và chơi thuốc. CÁC
CON là bọn duy nhất đủ NGU NGỐC để làm vậy, và các con thật trơ tráo khi gọi chúng, các con vật NGU SI, và nghĩ rằng các con thì hay hơn chúng, và rằng các con có quyền ở đây hơn chúng.
Thật kiêu ngạo và ngu dốt hết
sức!
8:55 You are evil, they aren’t, and they are better than
you, and when you have been destroyed, they will still be alive (Gen. 8:21
& Ezekiel 39:17-20). Animals only kill to eat, and in self-defence, as God
intended. They do not kill for “pleasure”, like you evil creatures
do. LEARN from the animals and nature, like the Indians
did, and become environmentalists.
STOP being so arrogant; blind and stupid!
8:55 Các
con là bọn ác, không phải
chúng, và chúng tốt hơn các
con, và khi các con bị xử chết,
chúng sẽ vẫn được sống (Sáng-thế Ký 8:21 & Edêkien/Ê-xê-chi-ên 39:17-20). Thú
vật chỉ săn mồi khi đói, (giết để ăn) và khi tự vệ, như Thiên Chúa định ý. Chúng không giết vì " ý thích", như bọn sinh vật
ác độc là các con. Hãy
HỌC từ các
loài động vật và thiên nhiên, như những người
Da Đỏ đã làm, và trở thành các
nhà bảo vệ môi trường.
Hãy NGỪNG ngay sự kiêu căng; mù quáng và ngu ngốc!
8:56 In spiritual and therefore REAL matters of life, the
Indians were hundreds of years in FRONT of the white-man. Unfortunately, the white-man
was ahead of the Indians in technology. The bow and arrow was no match for the gun.
8:56 Về những vấn đề thuộc linh/thuộc tinh thần và do đó là những chuyện THỰC SỰ của cuộc sống, những người Da Đỏ đã
đi TRƯỚC hàng trăm năm so với người da trắng. Thật không may, những người da trắng đã đi trước
người Da Đỏ về kỹ thuật. Cung và tên đấu không lại súng.
8:57 The Indians were friendly and honourable, and a God-fearing
people (The Great White Spirit - which He really is, showing that the
Indians were ahead of the white-man in spiritual-matters), respecting and
worshipping Wakan Tanka - The Great White Spirit, also known as Manitou.
8:57 Người Da Đỏ rất thân thiện và ngay thẳng, và là những người kính sợ Thiên Chúa (Linh Thần Trắng Vĩ Đại/Cột
Khói Trắng Lớn - thực sự Ngài là như vậy, việc này cho thấy người Da Đỏ đã tiến bộ hơn người da
trắng trong các vấn đề tinh thần/thuộc linh), kính trọng và phụng sự Wakan
Tanka - Chúa Thánh Thần
Trắng Vĩ Đại, cũng được biết đến như
Manitou.
8:58 The Indians appreciated spiritual, and not worldly values,
owning only the necessities of life, and moving FREELY about, on GOD’s land. They moved South in
the Winter, and North in the Summer, searching-out the best climatic-conditions
to live in.
8:58 Người Da Đỏ đã nhận thức sâu sắc (các giá trị thuộc) tâm hồn/tinh thần/phi vật
chất, không phải các giá trị thế gian, chỉ sở hữu những gì cần thiết trong cuộc sống, và di chuyển TỰ
DO, trên đất của Thiên Chúa. Họ di chuyển về
phía Nam khi Đông tới và về phía Bắc khi hè sang, tìm kiếm miền
khí hậu lý tưởng nhất, để sinh sống.
8:59 The Indians did not have the audacity, to say that they OWNED the land, because they KNEW that it belonged to God, NOT them, and that God graciously allowed them to
live on it, and provided them with food, water and the
means to create shelter.
8:59 Người Da Đỏ đã không bạo gan, mà tuyên bố rằng họ SỞ
HỮU đất đai, bởi vì họ BIẾT rằng nó thuộc về
Thiên Chúa, KHÔNG phải họ, và rằng Thiên Chúa đã độ lượng
cho phép họ sống trên đó, và cung cấp cho họ thức ăn, nước uống và các phương tiện cần thiết để tạo ra nơi trú ẩn.
8:60 When the white-men asked the Indians to sell them some of “their” land, the Indians laughed at them, but; being friendly and not wanting to upset or offend their new friends; they humoured the “simple-minded” white-men; agreed to accept their money and play their silly game, because it seemed to make them feel better, and happier.
8:60 Khi người da trắng hỏi người Da Đỏ bán cho một số đất
đai "của họ", người
Da Đỏ đã cười, nhưng; là những người
thân thiện và không muốn làm phật
lòng hay xúc phạm những người
bạn mới của họ; họ đã chìu ý người
da trắng "đầu óc đơn giản"; đồng ý nhận tiền và tham
gia trò chơi ngớ ngẩn của người
da trắng, bởi nó dường như làm cho người da trắng cảm thấy hài lòng, và hạnh phúc hơn.
8:61 How can people OWN land? It belongs to God!
How have people managed to pay God, for their title-deeds? Why do people always
want to own things? The more you own, the more problems you have. The more you
have, the more there is to protect from thieves, or to clean, or to go wrong
and to have to have repaired, or to be replaced. It is SELF-perpetuating and a vicious-circle, eventually turning the materialistic
person into a SLAVE, to his own possessions, and their maintenance
and perpetual increase. You CAN break the circle and get OFF the treadmill, if you WANT to. You do not own your
possessions; they own you.
8:61 Làm sao mà con người có thể SỞ HỮU đất đai? Nó thuộc về
Thiên Chúa! Làm cách nào con người có thể trả Thiên Chúa, để lấy các sổ đỏ (giấy chứng
nhận quyền sử dụng hay sở hữu đất) của họ? Tại sao con người cứ
luôn muốn được sở hữu của
riêng? Con sở hữu càng nhiều, thì càng nhiều vấn đề hơn cho con. Con càng có nhiều thứ, thì càng phải lo bảo vệ chúng khỏi trộm cắp, hay phải dọn dẹp, hay nhiều chuyện rắc rối/nhiều thứ hư hỏng và cần phải được sửa chữa, hoặc được thay thế. TỰ các chuyện
như vậy cứ phải tiếp tục như vậy hoài và (nó là) cái vòng luẩn
quẩn, cuối cùng biến kẻ mê vật chất thành một NÔ LỆ, cho tài sản riêng của họ, và việc bảo trì tài sản và các rắc rối tiếp
tục phát sinh. Con CÓ THỂ giải thoát mình khỏi cái
vòng luẩn quẩn đó và TẮT máy chạy bộ, nếu con MUỐN. Con không sở hữu
các tài sản của mình, chúng sở hữu con.
The love of money is the root of evil,
Simplicity is the best way!
Always seek the simple things of life.
Bởi chính sự tham tiền bạc
là cội rễ mọi điều ác,
Sự giản dị/tính đơn giản là cách tốt nhất!
Hãy luôn tìm kiếm những điều đơn giản của cuộc sống.
Sự giản dị/tính đơn giản là cách tốt nhất!
Hãy luôn tìm kiếm những điều đơn giản của cuộc sống.
8:62 It is NOT the man who has the MOST that is rich; but the man who NEEDS the LEAST. The man who needs the
least is rich, because he has more freedom - not being a SLAVE to material possessions (mammon) - and he does
not have to slave-his-life-away, to obtain material objects that he can never
keep, either for himself or his wife.
8:62 Thật KHÔNG phải kẻ có NHIỀU NHẤT là giàu; nhưng là kẻ CẦN ÍT NHẤT. Kẻ cần ít nhất thì giàu, bởi anh ta có nhiều tự do hơn - không phải
làm một NÔ LỆ cho
của cải vật chất (ma-môn/tiền
bạc) - và anh ta không cần phải
nô lệ hóa cuộc sống của mình, để có
được của cải vật chất mà anh
ta không bao giờ có thể giữ, cho bản
thân hoặc cho vợ anh.
8:63 Nothing in this world lasts for ever, and nothing is perfect, as an incentive, to leave the things of this world, and go home, where things are perfect; and live for ever.
8:63 Không có gì trên đời (thế giới này) có thể tồn tại mãi, và không có gì là hoàn hảo, đó như là một sự khích lệ, để (các con) từ bỏ thế giới này, và trở về nhà, nơi mà mọi
thứ là hoàn hảo, và tồn tại mãi mãi.
ARMAGEDDON SURVIVAL-PLAN - KEY. For Printed-Version please
contact JAH@JAHTruth.net.
CHÌA KHÓA – CẨM NANG – SINH TỒN TẬN THẾ. Giải đáp thắc mắc với
EliJah JAH@JAHTruth.net
8:64
Even Jesus was not perfect, whilst he was in this world, and he said so openly
(Matt. 19:17 & Luke 18:19).
8:64 Ngay cả Chúa Giêsu cũng không phải hoàn hảo, khi Chúa Giêsu ở
trong thế giới này, và Chúa Giêsu đã nói công khai như vậy (Mátthêu/Ma-thi-ơ 19:17 &
Luca 18:19).
8:65
It is not possible to be absolutely perfect, whilst wearing a
human-animal-body, with all the temptation
of this world.
8:65 Không thể khả thi để được tuyệt đối hoàn hảo, trong khi ở trong cơ thể-động vật-người, với
tất cả các cám dỗ của thế giới này.
8:66
The fact, that even Jesus was not perfect, should give everyone more
encouragement, to strive harder, to be like him.
8:66 Thực tế, mà ngay cả Chúa Giêsu cũng
không phải là hoàn hảo, nên cho các con nhiều động lực hơn, để
phấn đấu hơn nữa, cho được như Chúa Giêsu.
8:67 He told you how to get God’s help and guidance, to overcome your temptation, by DOING God’s Will — The Lord’s Prayer, N.B. “YOUR Will shall be DONE on Earth, as it IS done in heaven” (Matt. 6:10 & 7:21 & 12:50), and by keeping the COMMANDMENTS, including the eleventh (John 13:34 & 15:12) and twelfth (Matt. 7:1), that he gave personally to the disciples (Matt. 5:19 & John 14:21 & Rev. 14:12 & 22:14 / King of kings’ Bible, Rev. 14:12 & 30:14).
8:67 Chúa đã chỉ cho các con làm
sao để có được sự giúp đỡ và hướng dẫn
từ Thiên Chúa, để vượt qua sự
cám dỗ, (đó là) bằng
cách THỰC HIỆN
Thánh Ý của Thiên Chúa – (sống)
Lời Cầu Nguyện Thiên Chúa, Lưu Ý. "Thánh Ý CỦA CHA sẽ được THỰC HIỆN
trên Đất, như nó ĐƯỢC thực hiện trên
thiên đàng/Nước Cha được đến; Ý Cha
được nên, ở đất như trời! (bản dịch KT Tin lành)"(Mátthêu/Ma-thi-ơ 6:10 &
7:21 & 12:50), và bằng cách giữ các ĐIỀU RĂN/MỆNH LỆNH, bao gồm cả điều
thứ mười một (Gioan/Giăng 13:34 & 15:12) và điều mười hai (Mátthêu/Ma-thi-ơ 7:1), mà Chúa đã dạy trực tiếp cho các
môn đệ (Mátthêu/Ma-thi-ơ
5:19 & Gioan/Giăng 14:21 & Khải-huyền 14:12 & 22:14 /"Kinh Thánh Vua của các vua, Khải-huyền 14:12 & 30:14).
Trích dẫn Điều Răn thứ
11 và 12:
11. Con
phải yêu thương lẫn nhau nhiều như Ta yêu con và như cách Ta làm – tinh thần,
không phải thể xác – Gioan/Giăng 15: 13.
NẾU con LÀM vậy, TẤT THẢY mọi nhân linh sẽ BIẾT rằng con LÀ môn đồ của Ta và con
đang thực hành, học tập tính TỰ kỷ luật – Kỷ luật môn đồ.
12. Con chớ xét đoán ai, để khỏi bị xét đoán, bởi
Thiên Chúa, khi con đánh giá kẻ khác, một cách thiếu công minh, con tự mang vào thân
hình phạt tương tự. Chỉ Thiên Chúa mới có quyền phán xét, bởi Ngài luôn khách
quan, công bằng, liêm khiết và công minh. Ngài đã trao các Phán Quyết, trong
sách Luật của Ngài, cho con tại Đỉnh Sinai, dựa trên đó Ngài xét xử kẻ phạm Luật Ngài. KHÔNG
có luật nào khác trên hành tinh này là HỢP
PHÁP. Thiên Chúa đã nghiêm cấm các con trong việc
tự nghĩ ra luật lệ (Đệ Nhị Luật/Phục Truyền Luật Lệ Ký 4:2). Luật
Pháp của Thiên Chúa áp dụng bình đẳng với tất cả các con. Thiên Chúa KHÔNG có luật pháp riêng biệt – luật
cho kẻ giàu và luật cho kẻ nghèo.
8:68
To get God’s help, Jesus said that you HAVE
TO BE BORN AGAIN IN THE SPIRIT (John
3:3-6), and become like little children (Matt. 18:3-4 & Mark 10:15 &
Luke 18:17), with child-like (100%), NOT
childish, faith and trust in God’s
protection.
8:68 Để có được sự giúp đỡ từ Thiên Chúa, Chúa Giêsu nói rằng các
con PHẢI ĐƯỢC TÁI SANH LẠI TRONG THẦN
KHÍ/THÁNH LINH (Gioan/Giăng 3:3-6), và trở nên như con trẻ (Mátthêu/Ma-thi-ơ 18:3-4
& Máccô/Mác 10:15 & Luca 18 : 17), với sự trong trắng chân
thành con trẻ (100%), KHÔNG phải tính trẻ con, niềm tin và lòng tin vào sự vệ của Thiên Chúa.
8:69
Being “born again of the spirit”, means that you must be born again AS your spirit, and STOP
thinking of yourself as being a human,
and START to think of yourself as being your REAL self - your spirit (soul) - and act accordingly. Whilst-ever you
think of yourself as being a human, and think
in a human-way, you automatically
condemn yourself, to always being a human, until you are executed on the Last-Day.
8:69 Được "tái sanh lại từ Thánh Linh", có nghĩa là con phải được tái sanh trở lại THÀNH
linh hồn con, và DỪNG việc nghĩ về mình như là một con người, và BẮT
ĐẦU nghĩ về mình như là linh
dạng THẬT của mình - tinh thần/tâm hồn của con (linh hồn) - và điều chỉnh hành vi cho phù hợp. Một khi con nghĩ về mình như là một con người, và suy nghĩ theo cách con người (để cái tôi làm chủ), con tự động quy tội/ép chính
mình, để luôn làm một con người,
cho đến khi con bị xử chết vào Ngày Phán Xét/Ngày-Cuối.
8:70
You MUST become your spirit (real self) and control the body, and NOT the other way round, where the animal-body controls you.
8:70 Con CẦN PHẢI trở thành tinh thần con (linh dạng thật) và kiểm soát cơ thể, và KHÔNG phải ngược lại, nghĩa
là cơ thể-động vật kiểm soát con.
8:71 God’s secrets are hidden, from those who “think” they are wise; prudent; and who are arrogant, and are revealed to babes (Matt. 11:25 & Luke 10:21)(people born again in the spirit — Matt. 18:3-4 & Luke 10:21 & John 3:3).
8:71 Những bí mật của Thiên Chúa được
ẩn đi, dấu khỏi những
ai mà "nghĩ rằng" họ thật thông thái, khôn ngoan, và những ai kiêu ngạo, và được tiết lộ cho trẻ nhỏ (Mátthêu/Ma-thi-ơ 11:25 & Luca 10:21) (những ai được tái sanh lại trong Thánh Linh Mátthêu/Ma-thi-ơ 18:3-4 & Luca 10:21 & Gioan/Giăng 3:3).
8:72
“God is a spirit and they that worship Him, must worship Him in, and with their
spirit (Being), and in truth (John 4:24).” Always
being TRUTHFUL.
8:72 "Thiên Chúa là một linh thần và những ai thờ phượng Ngài, phải thờ phượng Ngài
trong, và với tinh thần/linh
hồn của họ (Linh), và trong sự thật (Gioan/Giăng 4:24)." Luôn phải TRUNG THỰC NGAY THẲNG.
8:73 Jesus explained that mothers, and fathers, are not really your mother and father, but that the bodies, that they are using, made the body that you are using, but they did NOT make your soul, any more than their parents’ bodies made their souls (Matt. 12:47-50 & John 6:42). That does NOT mean that you should disown them, or treat them any differently.
8:73 Chúa Giêsu đã giải thích rằng những người cha, mẹ không thực sự là cha mẹ
của các con, nhưng rằng
những cơ thể, mà họ sử dụng, tạo nên
cơ thể mà các con đang sử dụng, nhưng họ KHÔNG tạo nên linh hồn các con, cũng giống như các cơ thể cha mẹ của họ không tạo nên linh hồn của họ (Mátthêu/Ma-thi-ơ 12:47-50 & Gioan/Giăng 6:42). Điều đó KHÔNG có
nghĩa là các con nên từ nhau, hay đối xử với nhau khác đi (theo cách tiêu cực).
8:74
He also explained that, when you start to do God’s Will, “a man’s enemies WILL BE the people of his own household” (love your enemies into
changing), because the devil will use them and human animal emotion, to try to
pull you back from doing God’s Will (Matt. 10:34-37 & Luke 12:51-53 &
14:26, 27, 33). Satan will use the members of your
family, because they are the nearest to
you, and are the people you appreciate most, and of whom you normally take the most notice, and whose advice you usually cherish and respect (Micah 7:6).
8:74 Chúa cũng giải thích rằng, khi con bắt đầu thực hiện Thánh
Ý Thiên Chúa, "các
kẻ địch của người đàn ông SẼ LÀ những người
trong gia đình riêng của anh
ta" (yêu thương kẻ thù của con
để họ thay đổi), bởi ma quỷ sẽ sử dụng
họ và cảm xúc động vật-người, để cố ngăn cản con làm theo Thánh
Ý Thiên Chúa (Mátthêu/Ma-thi-ơ 10:34-37 & Luca 12:51-53 & 14:26, 27, 33). Satan sẽ dùng các thành viên trong gia đình của con, bởi vì họ là những
người gần con nhất, và là những
người con trân trọng nhất, và
là những người con thường quan
tâm chú ý nhất, và những lời khuyên/lời nói của họ thường làm con giữ trong lòng và lưu tâm (Mikha/Mi-chê 7:6).
8:75
Satan will use them, without
their knowing or understanding what
they are doing, so, you can not blame them, directly, for their words or
actions. They will try to advise you, whilst genuinely believing, that they have your best interests, at heart. However,
they will be advising you, from a MATERIAL
and human point of view, NOT a spiritual point of view, because they do not KNOW about spiritual-matters and God’s magic. They do not KNOW that God is REAL, and they do not know, what you will have already found
out, from God Himself, since you started to talk to Him DIRECTLY and properly, and started doing His Will for you.
8:75 Satan sẽ
dùng họ, mà họ không biết hay hiểu được điều đó/những
gì họ đang làm, vì lẽ đó, con không thể đổ lỗi cho họ, một cách trực tiếp, vì những lời nói hay hành động của họ. Họ sẽ cố gắng để khuyên bảo con, trong khi thực lòng tin rằng, họ làm vậy vì lợi ích tốt nhất của con, tận tâm can. Tuy nhiên, họ sẽ khuyên bảo con, từ góc nhìn VẬT CHẤT và quan điểm con
người, KHÔNG phải từ khía cạnh
tinh thần/tâm linh, bởi vì họ đâu BIẾT những vấn đề tinh thần/thuộc linh, và những phép màu của Thiên Chúa. Họ đâu BIẾT rằng Thiên Chúa là có THẬT, và họ đâu biết những gì
con đã tìm ra, từ chính Thiên Chúa, kể từ khi con bắt đầu nói chuyện TRỰC TIẾP và nghiêm túc với Ngài, và bắt đầu làm theo Thánh Ý của Ngài dành cho con.
8:76
DON’T get upset; be firm, and strive to convince them that you are right. Don’t let Satan trick you into becoming angry,
and making the situation worse; and don’t
run away. Explain to them calmly and
lovingly, the magic of DIRECT
communication with God HIMSELF, and love them into seeing your point of view, and strive
to get them to talk to God, DIRECTLY, themselves. If you don’t, they are all going to die on the Last-Day, and you don’t want that to happen to people
you love. Do you?
LOVE conquers all.
8:76 KHÔNG
nên buồn; hãy vững tâm, và cố gắng thuyết phục họ rằng con đúng. Đừng để Satan
lừa con và làm con giận dữ, và làm cho mọi thứ tồi tệ hơn và không được bỏ chạy/bỏ
đi. Giải thích cho họ một cách bình
tĩnh và một cách nhẹ nhàng đằm tính, sự kỳ diệu của việc nói chuyện TRỰC TIẾP với CHÍNH
Thiên Chúa, và thương yêu họ để họ nhìn ra quan điểm của con, và cố làm cho chính họ nói chuyện với Thiên Chúa, MỘT CÁCH TRỰC TIẾP. Nếu con không làm, tất cả họ sẽ chết
trong Ngày-Cuối, và con không muốn điều đó xảy đến với những ai con yêu mến. Phải
vậy không?
TÌNH YÊU chinh phục tất cả.
ARMAGEDDON SURVIVAL-PLAN - KEY. For Printed-Version please
contact JAH@JAHTruth.net.
CHÌA KHÓA – CẨM NANG – SINH TỒN TẬN THẾ. Giải đáp thắc mắc với
EliJah JAH@JAHTruth.net
8:77 Jesus also said that there can be no “Sitting on the Fence”,
and that there is NO middle-ground. He who is not FOR me, is AGAINST me (Matt. 12:30). Those who
are not on God’s side, doing God’s Will, and actively fighting for good, are actually helping Satan to win. Those who do nothing are ALLOWING the Devil to win, and so, are REALLY helping him. They are only cheating themselves
really, because, by allowing Satan to win, they are helping to make the world a
worse place, and they have to live in it, on top of which, they are not earning
their right to go home.
8:77 Chúa Giêsu cũng nói rằng không thể có
chuyện "Ngồi trên hàng rào
ngó", và rằng
KHÔNG có phe trung lập. Ai mà không CÙNG Ta, thì là NGHỊCH
Ta (Mátthêu/Ma-thi-ơ 12:30). Những ai không đứng về phía Thiên Chúa, thực
hiện Thánh Ý Thiên Chúa, và chủ động đấu tranh cho điều tốt, thì thực đang giúp đỡ cho Satan giành chiến thắng. Những ai ngồi
ngó/không làm gì có nghĩa là
đang TẠO ĐIỀU KIỆN cho Satan giành thắng lợi, và vì vậy, đang THỰC SỰ giúp đỡ hắn ta. Họ chỉ đang tự lừa dối
bản thân, bởi vì, bằng cách cho phép Satan giành chiến thắng, họ đang góp phần
làm cho thế giới trở thành một
nơi tồi tệ hơn, và họ phải sống trong đó, và trên hết, họ không nỗ
lực để dành quyền được trở về nhà.
8:78 Jesus said that you can NOT serve mammon
(material-values) and God, at the same time (Matt. 6:24), because, if you love
material goods, you will NOT be ABLE to fight for God, because you will be afraid of
losing your material possessions, or your human-life, or both.
8:78 Chúa Giêsu đã nói rằng con KHÔNG thể làm tôi tớ cho tiền tài/ma-môn (các giá trị vật chất/của cải vật
chất) và Thiên Chúa, cùng lúc (Mátt/Ma-thi-ơ 6:24), bởi vì, nếu con coi trọng của cải vật chất, con sẽ KHÔNG THỂ đấu tranh cho Thiên Chúa, bởi con sẽ sợ mất những thứ đó của mình, hay mạng sống con (phần người), hoặc cả hai.
8:79 THAT is when you need FAITH, in God’s protection and His promise of
eternal-life!
8:79 ĐÓ là lúc con thật cần ĐỨC TIN, vào sự bảo vệ của Thiên Chúa và lời hứa của Ngài về cuộc sống vĩnh hằng!
8:80 He that gains his life, in this world, shall lose it, and he
who loses his human-life, for the sake of all, shall gain his eternal-life and
his right to go home (Mark 8:34-38). This means, that he who allows Satan to
intimidate him, into not fighting for good, always playing-it-safe, to protect
his worthless human-life, and worldly and therefore temporary possessions,
shall lose his soul/Being (real life), in “The Fire”, and that he who fights
for justice and the good of all, without fear, because of his REAL faith in God, shall win his soul’s pardon,
freedom, and right to go home.
8:80 Ai mà muốn giữ mạng mình, trong thế giới này, thì sẽ mất nó, và ai mà hy sinh tính mạng
mình, vì lợi ích chung, sẽ nhận được sự sống vĩnh hằng của anh ta và quyền được trở về (Máccô/Mác 8:34 - 38). Điều này có nghĩa, ai mà cho phép Satan hăm dọa mình, sợ không dám đấu tranh cho điều tốt, luôn chọn phương kế an toàn, để bảo vệ mạng mình (thân xác vô giá trị), và của cải thế gian và do đó chỉ là tạm bợ (thuộc về họ một lúc nhất thời nào
đó), sẽ đánh mất linh hồn/Sự Tồn Tại (cuộc sống thật), trong "lửa Trời", và
rằng những ai đấu tranh cho
công lý và lợi ích chung,
không sợ hãi, bởi vì đức tin THẬT của họ vào Thiên Chúa
(tình yêu, sự thật, điều tốt), sẽ
giành được sự khoan hồng cho
linh hồn mình, tự do, và quyền được trở về.
8:81 Jesus explained about spiritual levels, when he said, in Mark
12:32-34, to the scribe, that, because of his answers to Jesus, and
his mental-attitude, he was not far from the Kingdom of God. This meant that he
was on a high spiritual-level, and did not have much more to learn, before he
could go home; always providing that he did not lose his faith, and allow himself to be scared, or bribed off, by Satan, and
go backwards.
8:81 Chúa Giêsu đã giải thích về các thứ bậc tâm linh/mức độ tinh thần, khi Chúa nói, trong Máccô/Mác 12:32-34, với người kinh sư/thầy thông giáo (từ dịch trong KT Công
Giáo/Tin Lành cho chữ scribe, scribe thời đó như luật sư thời
nay), bởi vì câu trả lời của
ông với Chúa Giêsu, và thái độ/quan
điểm (tinh thần) của ông, ông không còn xa Nước Thiên Chúa
.Điều này có nghĩa là ông ấy đã đạt tới thứ bậc tâm linh cao, và không còn quá nhiều điều để học nữa, trước khi ông có thể trở về; giả thiết rằng ông không đánh mất đức tin, và cho
phép mình sợ hãi, hoặc bị mua chuộc, bởi Satan, và đi lùi.
8:82 Jesus also taught about the laws of Karma, with what he said
to all the blind, crippled or sick people that he healed, using “The Force”. He
said that because of their faith, right then, at that moment in time, their
sins were forgiven them, and to GO AND SIN NO MORE. This was NOT referring to the sins of
the present-lifetime that they were living. They had been very sinful; evil;
arrogant and selfish, in their previous-lifetime, and so they had been
locked-inside bodies that were born crippled, or blind, etc., to punish them
for the evil, and harm, that they had done to others, in their previous lifetime
(John 9:2). Being blind, or crippled, etc., would not only punish them, but
also teach them HUMILITY, being now dependent upon the charity of other
people; perhaps even the same people they had hurt - ironic? - Divine Justice.
8:82 Chúa Giêsu còn dạy về luật Karma/Nhân Quả, qua
những điều Chúa nói với những người
mù, tàn tật hay đau yếu mà Chúa đã chữa lành, bằng cách sử dụng "Sức Mạnh/dòng
Năng Lượng". Chúa đã nói rằng bởi đức tin của họ, lập tức sau đó, tại thời điểm đó trong dòng
thời gian, tội lỗi của họ đã được
tha thứ, và ĐI ĐI VÀ ĐỪNG PHẠM TỘI
LẠI NỮA. Tội lỗi được đề cập đến
KHÔNG phải tội lỗi trong
cuộc đời hiện tại mà họ đang sống. Họ
đã rất tội lỗi, xấu xa, kiêu ngạo và ích kỷ, trong kiếp trước, và vì vậy họ đã bị nhốt, bên trong các cơ thể mà khi được sinh ra đã bị tàn tật, đui mù… để trừng phạt họ vì những tà ác, và tác hại, họ đã làm cho người
khác, trong tiền kiếp (Gioan/Giăng 9:2). Bị đui mù, hay tàn tật… sẽ không chỉ trừng
phạt họ, nhưng còn dạy cho họ SỰ KHIÊM NHƯỜNG, khi họ phải phụ thuộc vào sự bố thí từ kẻ khác, có lẽ ngay cả từ những ai
trước đây đã bị họ làm tổn thương -
mỉa mai? – Nghiệp báo từ Công Lý Thiên Thượng.
8:83 Blindness would teach them to value spiritual-things and
love, instead of material-things, because they could not see material-things,
thereby making them of less value, and less desirable. They had obviously been
very materialistic, in their previous-life, craving things of worldly beauty,
and hurting many relatively good people, in order to obtain these things.
8:83 Sự đui mù sẽ dạy cho họ biết trân trọng các giá trị và tình yêu tinh thần, thay vì vật chất, bởi họ không thể nhìn thấy
vật chất, do vậy làm cho
chúng có giá trị ít hơn, và ít được ao ước hơn. Họ rõ ràng đã từng rất (coi trọng) vật chất, trong kiếp trước của mình, thèm muốn những điều thuộc vẻ đẹp thế gian, và làm tổn thương/làm hại nhiều người tương đối tốt, để có được/đạt
được những thứ đó.
8:84 BEWARE, all you materially-rich people, who are poor in spirit, especially you who sell misery and
death, to obtain worldly VALUELESS treasures
(Luke 16:19-31)! You know who you are, and what is MORE important, so does God (Matt. 19:24).
8:84 Hãy COI
CHỪNG, hỡi những kẻ giàu có - của cải vật chất, mà nghèo khổ các giá trị tinh thần, đặc biệt những ai bán khốn
khổ bất hạnh và chết chóc, để có được châu báu thế gian VÔ GIÁ TRỊ (Luca 16:19-31)! Các ngươi đọc thì tự biết lấy, và quan trọng HƠN, Thiên Chúa cũng biết (Mátt/Ma-thi 19:24).
8:85 You are ALWAYS, EXACTLY where, and who, you have earned the right to be,
by ALL your past actions and thoughts, in eternal-time
—— PERFECT KARMA.
8:85 Các con LUÔN LUÔN, được đặt CHÍNH XÁC TRONG, hoàn cảnh và trong thân xác mà các con giành quyền/đáng được ở, bởi TẤT CẢ các hành động và suy nghĩ trong quá khứ của các con, qua các kiếp luân hồi – LUẬT BÁO ỨNG HOÀN HẢO.
8:86 It is not a crime to be poor, in worldly goods. On the
contrary, it is a crime to be rich, in worldly goods, and you have been selling
your soul, to obtain them. God, however, will not allow you to give these
things back to Him, on your human’s death, to buy back your soul, and, in any
case, they were never REALLY yours, they were only LOANED to you by Satan, in payment for doing his
wishes. These things don’t even belong to Satan, they belong to GOD, because He owns the WHOLE world. He created it all, and doesn’t want any
of it. He, being spirit, has no needs. What would God want silly worldly
treasures for? The devil has conned you AGAIN! NEVER under-estimate
the devil’s cunning! That is why you have to cling to God, and trust ONLY Him and His guidance, and not your own
wisdom (?), so that Satan can not fool you, again. That
is why the first COMMANDMENT is the FIRST and most important COMMANDMENT of all, and all the other COMMANDMENTS hang upon it.
8:86 Nghèo, của cải vật chất, không phải là một cái tội. Trái lại, giàu có của cải vật
chất thế gian, và việc các con tiếp tục bán linh hồn các con, để có được chúng, thì mới là có tội. Thiên Chúa, vì vậy, sẽ không cho phép các con trả lại
những thứ đó, khi các con chết
(thân xác), để chuộc lại linh hồn các con, và, trong trường hợp nào đi nữa, chúng (của cải vật chất) không
bao giờ THỰC SỰ là của các con, chúng chỉ được cho các
con VAY MƯỢN bởi Satan, như là các thanh toán cho việc
làm theo ý hắn. Những thứ đó thậm chí còn không thuộc về Satan, chúng thuộc về THIÊN CHÚA, bởi Ngài sở hữu CẢ thế giới. Ngài đã tạo ra
tất cả, và không muốn bất kỳ thứ gì. Ngài, là thuộc tinh thần/là linh thần, không có các nhu cầu. Thiên Chúa muốn các kho báu ngớ ngẩn của thế gian để làm gì? Satan lại lừa các con NỮA! ĐỪNG BAO GIỜ đánh giá thấp tính xảo quyệt của Satan! Đó là lý do tại sao các con cần phải bám víu vào Thiên Chúa, và CHỈ tin mỗi Ngài và hướng dẫn của Ngài, và
không phải sự khôn ngoan của các con (?), Để cho Satan không thể đánh lừa các con, thêm nữa. Đó là lý do vì
sao ĐIỀU RĂN đầu tiên là ĐIỀU THỨ NHẤT và
là ĐIỀU RĂN quan trọng nhất trong tất cả, và tất cả CÁC ĐIỀU RĂN khác treo
trên nó.
8:87 Learn true and lasting values — the values of heaven, i.e.
love and unselfishness.
8:87 Hãy học các giá trị thật và lâu dài — các giá trị của thiên đường, ví như tình yêu và tính không ích kỷ.
8:88 Blessed are the poor, in worldly possessions, who are rich in
spirit, i.e. heavenly-wealth, for theirs will be the Kingdom of heaven (Matt. 5:3).
8:88 Phước thay cho những kẻ nghèo, của cải thế gian, nhưng giàu có về tinh thần, tức là sự giàu có của thiên
đàng, Nước Thiên Đàng sẽ thuộc
về những kẻ ấy (Mátt/Ma-thi 5:3).
8:89 “INDIVIDUAL socialism”, from personal choice, is the ONLY way (Jesus). You did not come here to have a good time (which usually
actually means a bad time), and collect material wealth, you are in prison, on
“Death-Row”, and you came here to
learn to be good; earn your pardon; and right to go home; or, if not; be
executed.
8:89 "Chủ nghĩa xã hội TỰ CHỌN", đến
từ sự lựa chọn cá nhân, là cách DUY NHẤT (cách của Chúa Giêsu). Các
con không phải đến
đây để có một thời gian vui vẻ (mà thường thực chất là thời gian xấu), và thu lượm của cải vật chất, các con đang đi tù, “Án-Chết”
còn treo đó, và các con đến đây để học cho được tốt/được
nên thành; tìm kiếm sự tha thứ/khoan hồng của các con; và quyền được trở về, hoặc, nếu không, thì bị xử chết.
ARMAGEDDON SURVIVAL-PLAN - KEY. For Printed-Version please
contact JAH@JAHTruth.net.
CHÌA KHÓA – CẨM NANG – SINH TỒN TẬN THẾ. Giải đáp thắc mắc với
EliJah (Malakhi chương 4 đã bị tháo bỏ trong KT Công Giáo/Ma-la-chi Chương 4) JAH@JAHTruth.net
8:90 Jesus used “The Force” to work the miracles in the New
Covenant. When you have “blind faith”; which does not really mean blind, it means 100% (total) faith in God,
with your eyes (human and spiritual) WIDE-open, to all the angles
from which Satan can use people to attack you; you can then become a channel
for “The Force”. If you do not have blind faith, you block the channel, and “The
Force” can neither flow through you, nor into you, to heal you.
8:90 Chúa Giêsu đã dùng "Sức Mạnh/dòng
Năng Lượng" để làm những
phép lạ được ghi chép lại trong sách Tân Ước. Khi
các con có “niềm tin/đức tin không cần thấy"; mà
không thực sự có nghĩa là mù quáng,
nó có nghĩa là đức tin 100% (hoàn
toàn) vào Thiên Chúa, mở TO
mắt (người và mắt tinh thần), ở tất cả các góc độ mà Satan có thể sử dụng kẻ
khác để tấn công các con; sau đó các con có thể trở thành một kênh trung/dịch chuyển "Sức Mạnh/dòng Năng Lượng". Nếu các con không có niềm tin/đức tin không cần thấy, các con chặn sóng khóa kênh, và
"dòng Năng Lượng"
không thể lưu thông qua các con, hay vào trong các con,
để chữa lành cho các con.
8:91 “The Force” came from God and flowed through Jesus, and he directed
it, into the people who had unblocked-channels (blind faith), and “The Force”
cured them. God, through Jesus, ONLY cured the people who had total faith that Jesus was His Son incarnated, and
that he could cure them.
8:91 "Dòng Năng Lượng" đến từ Thiên Chúa và chảy qua Chúa Giêsu,
và Chúa đã chỉ đường cho nó,
vào những người mà đã mở khóa/đả thông (niềm tin không cần thấy), và "dòng Năng Lượng" chữa khỏi cho họ.
Thiên Chúa, thông qua Chúa
Giêsu, CHỈ chữa khỏi những ai có đức tin hoàn toàn rằng Chúa Giêsu là Con Một của Ngài đã nhập thể (linh hồn ở trong xác
phàm), và rằng Chúa Giêsu có thể chữa bệnh cho họ.
8:92 Your (100%) faith (in God’s power and in me) has made you whole,
and your sins (from your previous-lifetime, which caused you to be blind;
crippled or sick, as a punishment in this lifetime) are forgiven you. Go and
sin no more (John 9:2).
Are YOUR channels unblocked yet?
8:92 Đức tin của con (100%) (vào quyền năng Thiên Chúa và vào Ta) đã làm cho con lành bệnh, và tội lỗi của con (từ tiền kiếp của con, mà đã khiến con
bị mù, tàn tật hay bệnh tật, như một sự trừng phạt trong kiếp
này) đã được tha thứ. Hãy đi đi và đừng phạm
tội nữa (Gioan/Giăng 9:2).
Các kinh mạch (tư tưởng) CỦA CÁC CON
đã được đả thông chưa?
8:93 Faith is the key to the “magic” door - the
door to miracles, and a God-guided life, walking always in the Healing Light,
and the entrance to the Kingdom of God, and the return of your IMMORTALITY; real memory; identity and super-human powers.
8:93 Đức tin là chìa khóa đến cánh cửa "nhiệm mầu"
- cánh cửa dẫn tới những
phép lạ, và một cuộc sống Thiên hướng
(dạy và dẫn dắt bởi Thiên chúa),
luôn luôn đi trong trong Ánh Sáng Phục Sinh (tiếp sinh lực và chữa lành), và là lối vào Vương quốc của Thiên Chúa, và sự khôi
phục lại TÍNH BẤT TỬ (thần tính), trí nhớ thật; nguồn gốc và các sức mạnh siêu phàm
của con.
8:94 Samson used “The Force” to pull down the heathen temple; David’s
stone was guided by “The Force” to kill Goliath; “The Force” parted the Red
Sea; etc.; etc.; etc.
8:94 Sam-sôn đã sử dụng "dòng
Năng Lượng" để kéo đổ đền thờ ngoại đạo; hòn đá của David/Đa-vít đã được dẫn dắt bởi "dòng Năng Lượng" để giết Goliath/Gô-li-át,
"dòng Năng Lượng" đã rẽ
nước Biển Đỏ ... ... ...
8:95 Jesus was transfigured on the mountain, and his face shone
like the Sun, because his soul (Being of Light, Ch. 1) was shining through his
face (like Moses), and his clothes were white and shining, “as white as the
light, and whiter than anything on Earth could make them” (Matt. 17:2 &
Mark 9:3 & Luke 9:29). This was caused by a force-field, put around him to
protect the body, that he was using, from the heat and effects of the
spaceship. Then, after God had finished speaking to Jesus, a “bright” cloud came over the disciples, and the smoke
of the cloud engulfed them (Luke 9:34), and God said, “This is My beloved Son,
in whom I am well pleased: hear him” (Matt. 17:5). How then, can Christ (the
spirit within the man) not be the Son of God, when God
Himself said so? God NEVER lies; lies are Lucifer the Devil’s invention
(John 8:44 / King of kings’ Bible, John 8:35).
8:95 Chúa Giêsu đã hiển dung trên núi, và mặt Chúa Giêsu tỏa sáng như mặt Trời, bởi vì linh hồn của Chúa (Linh dạng Ánh Sáng, Ch. 1) đã sáng ngời xuyên qua mặt Chúa (như Mô-sê), và y phục của Chúa là trắng tinh và chói sáng,"trắng như ánh sáng, và trắng hơn bất cứ điều gì trên trái Đất có thể có" (Mátt/Ma-thi 17:2 Máccô/Mác 9:3 & Luca 9:29). Điều này được
tạo ra bởi một trường lực, xuất
hiện xung quanh để bảo vệ cơ thể, mà
lúc đó Chúa sử dụng, khỏi nhiệt và các tác động từ tàu vũ trụ. Về sau, sau khi Thiên Chúa nói chuyện với Chúa
Giêsu xong, một đám
mây "sáng" đến bên các môn đệ Chúa, và khói
của đám mây đó bao phủ họ
(Lu-ca 9:34), và Thiên Chúa nói, "Đây là Con yêu dấu của Ta, Đấng làm đẹp lòng Ta mọi đường,
hãy nghe theo Con Ta" (Mátt/Ma-thi 17:5). Làm thế nào, mà Chúa (linh thần trong Giêsu) không phải là Con Thiên Chúa, khi Thiên
Chúa Chính Ngài đã nói như vậy? Thiên Chúa KHÔNG BAO GIỜ nói dối, những lời dối là phát minh của Lucifer/Lu-xi-phơ Satan (Gioan/Giăng 8:44/Kinh Thánh Vua của các vua, Gioan/Giăng 8:35).
8:96 Jesus said that you must NOT be priests (Matt. 23:8),
and that you must NOT LISTEN TO PRIESTS (Matt. 15:14 & 16:12 & 23:9, 13, 24),
but to go into your closets (in private) to speak to God, and DO His Will. He said that you MUST DO and LIVE the Lord’s Prayer (Matt.
6:9-15), not just repeat it like a silly parrot, that does not UNDERSTAND what it is saying, and that includes the singing
of hymns and the communal, or individual, saying of written-prayers.
8:96 Chúa Giêsu đã nói rằng các con KHÔNG ĐƯỢC làm linh mục/mục sư/cha đạo/Imam/Rabbi (thầy)/thầy tế/thầy chùa… (Mátt/Ma-thi 23:8), và rằng các
con KHÔNG ĐƯỢC NGHE THEO BỌN HỌ (Mátt/Ma-thi 15:14 & 16:12 &
23:9, 13, 24), nhưng tìm nơi yên tĩnh (riêng tư) để nói chuyện
với Thiên Chúa, và LÀM THEO Ý Ngài. Ngài đã dạy rằng các con CẦN PHẢI LÀM và SỐNG như Lời Cầu Nguyện Ngài (Mátt/Ma-thi 6:9-15), không phải chỉ lặp đi lặp lại giống như một con vẹt ngớ ngẩn, mà không HIỂU
những gì nó đang nói, và đó là nói
luôn đến việc hát các bài thánh ca
và đọc to hay lập đi lập lại các lời cầu nguyện chung và riêng.
8:97 Repeating written-prayers, once a week, or up to 5 times a day, is NO good, because the rest of the time you are automatically talking to Satan (Matt. 6:7).
8:97 Lặp đi lặp lại lời cầu nguyện-viết, mỗi tuần một lần, hay tới 5 lần một ngày, thật KHÔNG ích gì, vì phần thời gian còn lại các con sẽ tự như nói chuyện với
Satan (Mátt/Ma-thi 6:7).
8:98 Praying, MEANS, talking to God, mentally
(telepathically), 24 hours a day, EVERY day, and CONSULTING Him on EVERYTHING,
and getting His guidance and help, to enable you to be able to DO His Will (Sura 42:38)(Ephesians 6:18 & 1st.
Thessalonians 5:17).
8:98 Cầu nguyện, NGHĨA LÀ, nói chuyện với
Thiên Chúa, trong tâm (thần
giao cách cảm), 24 giờ một ngày, MỖI ngày, và HỎI Ý KIẾN Ngài về
MỌI SỰ, và nhận sự hướng dẫn và giúp đỡ của Ngài, để cho
phép các con có thể LÀM THEO Thánh Ý của Ngài (Sura
42 : 38) (Ê-phê-sô 6:18 & 1Thessalonica/1 Tê-sa-lô-ni-ca 5:17).
8:99 Initially, it will be a conscious effort, but, eventually, when you have had enough practice, it will become as natural and
unconscious an effort, as breathing.
8:99 Ban đầu, nó sẽ như một nỗ lực
có ý thức, nhưng, dần dần,
khi các con đã thực hành đủ, nó sẽ trở nên như một nỗ lực tự nhiên và vô thức, như việc hô hấp.
8:100 If you are not actually talking, you must still continue to listen, and acknowledge His presence, and the contact; keeping the line open. The moment you break, or allow the contact to be broken, you are allowing an opening for Satan to use, and he will “jump straight-in, with both feet.”
8:100 Nếu các con không thực sự nói chuyện, các con vẫn phải tiếp tục lắng nghe, và nhận
thức sự hiện diện của Ngài, và
thừa nhận sự liên lạc, giữ cho dòng trao đổi/đường truyền
hoạt động. Bất cứ lúc nào các con dừng lại, hoặc để cho việc liên lạc bị gián đoạn, các con đang tạo sơ hở cho Satan sử
dụng, và hắn ta sẽ "nhảy thẳng vào, bằng cả hai chân."
8:101 Christ foretold of his Second Coming, to his disciples, at
the “Last Supper”. He told them that he had many things, still to tell them,
but that they could not bear to hear them yet (John 16:12), but that the time
would come (his Second Coming), when he would not talk in proverbs, or
parables, and would show them clearly about God (John 16:25 & Rev. 10:7).
8:101 Chúa Giêsu đã tiên báo lần Tái Lâm của
mình, với các môn đệ của Chúa, tại "Bữa Tiệc Ly/Bữa tiệc Cuối". Chúa nói với họ rằng Chúa có rất nhiều điều, vẫn còn để nói với họ, nhưng họ
hãy còn chưa được chuẩn bị để nghe (Gioan/Giăng 16:12), nhưng thời điểm sẽ đến
(lần trở lại thứ Hai của Chúa), lúc
đó Chúa sẽ không nói với họ bằng châm ngôn, và dụ
(ngụ) ngôn, nhưng sẽ chỉ cho họ rõ ràng, về Thiên Chúa (Gioan/Giăng 16: 25
& Khải-huyền 10:7).
8:102 He said the Second Coming would be, at a time when they would
not think that he was coming (Luke 12:40), and that he would enlighten the
whole world (Matt. 24:27, N.B. Luke 17:24-37 & Rev. 10:7), and that God’s
truth (Gospel) must be PUBLISHED,
amongst all nations (Mark 13:10). He said that the churches and their riches
would be demolished (Luke 21:5-6), and that all REAL and PRACTISING believers,
of ALL NATIONS, who had the mark of God in their foreheads
(direct communication with God), would survive the Last-Day (Luke 13:29).
8:102 Chúa đã nói lần trở lại thứ Hai sẽ
là, tại thời điểm khi mọi người
sẽ không nghĩ rằng Chúa đã tới (Luca 12:40), và rằng Chúa
sẽ khai sáng cho cả thế giới (Mátt/Ma-thi 24:27, Lưu Chú: Luca 17:24 -37 & Khải-huyền 10:7), và rằng sự thật Thiên Chúa (Phúc Âm) phải
được CÔNG BỐ, trên tất cả các quốc gia (Máccô/Mác 13:10). Chúa đã nói rằng các nhà thờ
và của cải tài sản của nó sẽ
bị phá hủy (Luca 21:5-6), và rằng tất cả những ai có đức tin THẬT
và THỰC HÀNH lời dạy, ở MỌI QUỐC
GIA, những ai có dấu ấn của Thiên Chúa trên trán họ (nói chuyện trực tiếp với Thiên Chúa), sẽ sống sót Ngày-Cuối (Luca 13:29).
ARMAGEDDON SURVIVAL-PLAN - KEY. For Printed-Version please
contact JAH@JAHTruth.net.
CHÌA KHÓA – CẨM NANG – SINH TỒN TẬN THẾ. Giải đáp thắc mắc với EliJah JAH@JAHTruth.net.
CHÌA KHÓA – CẨM NANG – SINH TỒN TẬN THẾ. Giải đáp thắc mắc với EliJah JAH@JAHTruth.net.
8:103 Do you have the mark? Jesus left a question about the
Second Coming: “Nevertheless when the Son of man comes, shall he find faith on
the Earth?” (Luke 18:8). What do you think? Is there faith on the Earth today?
8:103 Các
con có dấu ấn không? Chúa Giêsu
đã để lại một câu hỏi về lần Tái Lâm của mình: "Nhưng khi Con trai loài người đến, Người sẽ thấy đức tin trên trái Đất?" (Luca18:8). Theo các con thì sao? Còn
có đức tin trên trái Đất ngày nay
không?
8:104 Jesus said, if any man does God’s Will, God will prove to him, whether Jesus’ teachings are true, or whether Jesus has made them up himself
(John 7:17).
8:104 Chúa Giêsu đã nói, nếu bất kỳ người đàn ông nào
thực hiện Thánh Ý
Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ thực tỏ cho anh ta, giảng dạy của Chúa Giêsu có đúng sự thật
hay không, hay như có phải Chúa Giêsu đã tự bịa ra chúng hay
không (Gioan/Giăng 7:17).
8:105 You have had 2000 years to test his teachings, and find-out
if they are true, and yet you are still here. Why?
8:105 Các con đã có 2000 năm để kiểm tra lời Chúa dạy, và tìm hiểu xem chúng có đúng không, nhưng các con hãy còn ở
đây. Tại sao vậy?
WHY?
The Bible is not just a Book of
nice stories. It contains the Old COVENANT
and the New COVENANT (contract/Testament), and is a map for your spiritual-journey of self-perfection. YOU have to BECOME Abraham, to begin the journey, and then become Isaac; Jacob/Israel; Joseph; Moses; the Prophets and then FINALLY Jesus.
TẠI SAO VẬY?
Kinh Thánh không chỉ là một tập Sách tổng hợp các câu chuyện hay. Nó chứa GIAO ƯỚC Cũ/Cựu Ước và GIAO ƯỚC Mới/Tân Ước (hợp đồng giao ước giữa các con với Thiên Chúa/Bằng Chứng), và là một bản đồ hướng dẫn hành trình tâm linh của các con để hoàn thiện bản thân. CÁC CON phải TRỞ NÊN như Abraham/Áp-ra-ham, để bắt đầu cuộc hành trình, và sau đó trở nên như Isaac/I-xa-ác/Y-sác, Jacob(Gia-cóp/Gia-cốp)/Israel (Ít-ra-en/Y-sơ-ra-ên); Joseph/Giu-se/Giô-sép; Moses/Mô-sê/Môi-se, các Nhà tiên tri và CUỐI CÙNG sau đó là Giêsu.
Xem tiếp: Chương 9
Download the FREE PDF version at: http://thewayhomeorfacethefire.net/
All correspondence please to jah@gibraltar.gi
or to:-
JAH, JAH Publications, P. O. Box 2129, Canvey Island, SS8 9UF, England, U.K.
Any support or donations to assist in our on-going research and promotion of "The Long Awaited Truth of All Things on Planet Earth" would be very much appreciated.
Any support or donations to assist in our on-going research and promotion of "The Long Awaited Truth of All Things on Planet Earth" would be very much appreciated.
PREFACE
Từ “Những Điều Thiết Yếu” của cuộc sống.
The Way
home
“The soul’s guide back to
heaven.”
CONTENTS.
Chapter 1. “Before the Beginning”
(of human-life on Earth).
Chapter 2. “The Prison Reform
School with no bars.” Earth/Hell.
Chapter 3. “The Creation of
Human-Animals.”
Chapter 4. “The First Test and
regression to following Lucifer.”
Chapter 5. “A Fresh-Start.” ——
The choosing of Noah.
Chapter 6. “Abraham, Lot and
Sodom and GomorrEah.”
Chapter 7. “The Choosing of
Abraham and his Line.”
Chapter 8. “The Shining Example.”
(The Light of the World.)
Chapter 9. “The Birth of
Christianity as yet another religion.”
Chapter 10. “Mohammed and the
Birth of Islam as yet another religion.”
Chapter 11. “Satan’s use of
Religions to Divide, Conquer and Rule.”
Chapter 12. “Prince
Michael/Christ comes again.”
Chapter 13. “Unlucky for some (most?).”
Đường
Về
"Hướng dẫn linh hồn cách
về lại thiên đàng."
NỘI DUNG.
Chương 1. "Trước cả Sự Bắt Đầu" (của cuộc sống con người trên Trái Đất).
Chương 2. "Trường Cải Tạo không song sắt." TráiĐất/Địa ngục.
Chương 3. "Sự Tạo Thành các Người - Động vật"
Chương 4. "Thử Thách Đầu và Việc Đi Lùi theo Lucifer."
Chương 5. "Một Khởi Đầu Mới.” —— Lựa Chọn Noah.
Chương 6. "Abraham (Áp-ra-ham), Lot(Lót) và Sodom (Sô-đôm) và GomorrEah (Gô-mô-rơ)"
Chương 7. "Lựa Chọn Áp-ra-ham và Hậu Duệ."
Chương 8. "Gương Sáng." (Ánh Sáng củaThế Giới)
Chương 9. "Sự ra đời của Kitô giáo, lại một tôn giáo khác."
Chương 10. "Mohammed và sự ra đời của đạo Hồi, lại một tôn giáo nữa."
Chương 11. "Satan sử dụng tôn giáo để chia rẽ, chinh phục và thống trị."
Chương 12. "Hoàng tử Michael /Chúa Kitô lại đến."
Chương 13. "Không may mắn cho một số (hầu hết?)."
NỘI DUNG.
Chương 1. "Trước cả Sự Bắt Đầu" (của cuộc sống con người trên Trái Đất).
Chương 2. "Trường Cải Tạo không song sắt." TráiĐất/Địa ngục.
Chương 3. "Sự Tạo Thành các Người - Động vật"
Chương 4. "Thử Thách Đầu và Việc Đi Lùi theo Lucifer."
Chương 5. "Một Khởi Đầu Mới.” —— Lựa Chọn Noah.
Chương 6. "Abraham (Áp-ra-ham), Lot(Lót) và Sodom (Sô-đôm) và GomorrEah (Gô-mô-rơ)"
Chương 7. "Lựa Chọn Áp-ra-ham và Hậu Duệ."
Chương 8. "Gương Sáng." (Ánh Sáng củaThế Giới)
Chương 9. "Sự ra đời của Kitô giáo, lại một tôn giáo khác."
Chương 10. "Mohammed và sự ra đời của đạo Hồi, lại một tôn giáo nữa."
Chương 11. "Satan sử dụng tôn giáo để chia rẽ, chinh phục và thống trị."
Chương 12. "Hoàng tử Michael /Chúa Kitô lại đến."
Chương 13. "Không may mắn cho một số (hầu hết?)."
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét