ARMAGEDDON SURVIVAL-PLAN - KEY. For Printed-Version please
contact JAH@JAHTruth.net.
Chìa Khóa – Cẩm Nang – Sinh Tồn Tận Thế. Nếu cần Bản-in, vui lòng
liên hệ JAH@JAHTruth.net
CHAPTER 7
CHƯƠNG 7
The choosing of
Abraham and his Line.
Lựa
Chọn Áp-ra-ham và Hậu Duệ.
7:1 God chose Abraham, because he was non-religious, and the most righteous man available, at the time. The choice had
absolutely nothing to do with nationality. Abraham dis-owned his nation, and left
them, and moved completely away from them (Gen. 12:1).
7:1 Thiên Chúa đã chọn ra Abraham/Áp-ra-ham, bởi
ông không sùng bái/hay tin theo tín ngưỡng tôn giáo, và là người đàn ông ngay thẳng nhất, lúc bấy giờ. Chọn
lựa đó hoàn toàn không can hệ
đến vấn đề nguồn gốc sắc tộc.
Abraham đã tuyệt giao với quốc
gia ông, và bỏ người xứ ông, và thoát ly hoàn toàn khỏi họ (Sáng-thế Ký 12:1).
7:2 Before God would trust Abraham enough, to give him a great responsibility, He had to be sure, that he would not fail
Him. God therefore taught Abraham, little by little, testing him, every step of
the way, and on the passing of tests, gave him still more enlightenment and responsibility.
7:2 Trước khi Thiên Chúa đủ tin tưởng Áp-ra-ham, để giao cho ông một trách nhiệm lớn, Ngài phải chắc chắn, rằng ông sẽ
không làm Ngài thất vọng. Thiên Chúa do đó đã dạy Áp-ra-ham, từng chút một, thử thách ông, trên mọi bước con đường, và với việc vượt qua các bài kiểm tra, cho ông thêm sự giác ngộ và trách nhiệm hơn nữa.
7:3 After living for 100 years, and never being able to have
children, God gave Abraham and his wife, a son. You must think carefully and deeply, about what that
must have meant, to Abraham, who had always wanted a son and heir, and finally and miraculously, when he was 100 years old, God gave him a “miracle” son (Gen. 21:5).
7:3 Sau khi sống được 100 năm, và không có
khả năng có con, Thiên Chúa đã ban cho Áp-ra-ham và vợ ông, một người con trai. Con cần suy nghĩ cẩn thận và
thấu đáo, về giá trị của
điều đó, đối với Áp-ra-ham, vì ông đã luôn muốn có được đứa con trai và người thừa kế, và cuối cùng và diệu kỳ thay, khi ông đã
trăm tuổi, Thiên Chúa ban cho ông người con
trai "phép lạ" (Sáng
21:05).
7:4 Abraham, who was 100 years old, and his wife Sarah, who was 90
years old and well past childbearing age, both laughed, when the angel told
them that Sarah was to bear a son. Sarah was rebuked, because she contradicted the angel. The angel said, “Is
anything too hard for the Lord?”
(Do you not believe, that the Lord can bring back your time of
child-bearing, and give you a son?)
So they called the child Isaac, which means “laughter”, in Hebrew.
7:4 Áp-ra-ham, người đã được một trăm tuổi, và vợ của ông, Xa-ra/Sa-ra, người đã 90 tuổi và cũng quá tuổi sanh nở, cả hai cùng cười, khi thiên sứ nói với họ rằng Xa-ra/Sa-ra sắp sanh một người con trai. Xa-ra/Sa-ra bị quở trách, bởi bà cãi lại thiên sứ. Thiên sứ nói,
"Có điều chi là quá khó với
Thiên Chúa?"
(Bà thật không tin, rằng Thiên Chúa có thể mang lại thời sanh nở, và ban cho bà một người con trai?)
Do vậy, họ gọi con đó là I-xa-ác/Y-sắc, có nghĩa là "tiếng cười", trong tiếng Do Thái.
(Bà thật không tin, rằng Thiên Chúa có thể mang lại thời sanh nở, và ban cho bà một người con trai?)
Do vậy, họ gọi con đó là I-xa-ác/Y-sắc, có nghĩa là "tiếng cười", trong tiếng Do Thái.
7:5 A few years later; when Abraham had had the time, to get to know
and love his son Isaac; God gave Abraham the penultimate test, because He had
to be sure of Abraham’s love; total obedience, and devotion to Him. ONLY if Abraham passed THIS test, could God trust him enough, to give him, personally, the responsibility, of bringing enlightenment, to a very dark world. This was because; if Abraham was “Self”-motivated, and not totally obedient to God; he may have used God’s
enlightenment for his own personal benefit, and not for the good of everyone
(Matt. 10:37-38)(Sura 9:23-24).
7:5 Một vài năm sau; khi Áp-ra-ham đã có đủ thời gian, biết thân và yêu thương con trai I-xa-ác/Y-sắc của ông; Thiên Chúa thử Áp-ra-ham một thử
thách áp chót, bởi Ngài muốn biết
chắc về tình yêu, sự vâng phục hoàn toàn, và lòng thành của Áp-ra-ham đối với Ngài. CHỈ
khi Áp-ra-ham vượt
qua được thử thách NÀY, Thiên Chúa mới có thể đủ tin tưởng ông, và trao cho cá nhân ông, trách nhiệm quan trọng, mang
đến sự khai sáng, cho một thế giới rất u tối. Điều
này là bởi, nếu Áp-ra-ham vì động cơ “của cái Tôi”, và không hoàn toàn vâng phục
Thiên Chúa, ông có thể đã sử dụng sự khai sáng từ Thiên Chúa cho lợi
ích cá nhân của riêng ông, và
không phải cho lợi ích của tất cả mọi người (Mátthêu/Ma-thi-ơ 10:37-38) (Sura 9:23-24).
7:6 The test, was to kill/sacrifice his own beloved “miracle” son, Isaac, whom he loved, more than anything
on Earth. Just think, about what Abraham must have gone-through, and the agony,
involved in killing his son, that he had waited 100 years to have. Abraham was
on the point of killing his own, and only legitimate son, when God stopped him,
and told him, that it was only a test, to see how much he loved God. Abraham
passed the test, and the forfeit was then not taken, because the Lord knew, that Abraham was really going to kill and
sacrifice his son, as God was reading his thoughts (Genesis 22:1, 13).
7:6 Thử thách đó là, phải giết tế/hy sinh chính đứa con "phép lạ" thân yêu của ông, I-xa-ác/Y-sắc, người mà ông yêu thương, hơn bất cứ điều gì trên trái đất. Chỉ cần suy
nghĩ, về những gì Áp-ra-ham đã phải trải qua, và sự thống khổ, liên
quan đến việc giết chết con trai mình, đứa trẻ mà ông đã chờ đợi 100 năm để có. Áp-ra-ham đã
sắp giết chết, đứa con trai hợp pháp duy nhất của chính
ông, nhưng Thiên Chúa đã ngăn ông lại, và nói
với ông, rằng đó chỉ là một bài test/kiểm tra, để xem ông yêu mến Thiên Chúa
nhường nào. Áp-ra-ham đã vượt
qua được bài kiểm tra, và việc
hiến tế sau đó đã không xảy
ra, bởi Thiên Chúa đã biết
rằng, Áp-ra-ham thực sự sắp
giết tế và hy sinh con trai ông, theo như Thiên Chúa đã đọc từ suy nghĩ của ông (Sáng-thế Ký 22:01, 13).
7:7 It is impossible to fool God, because He knows everything that everyone is
thinking, every second of the day, in whatever human language they are thinking
(Job 42:2)(Sura 2:77).
7:7 Thật bất khả thi để đánh lừa Thiên Chúa, bởi Ngài biết tất cả mọi điều mà tất cả mọi người đang suy nghĩ, mỗi giây mỗi
phút mỗi ngày, bằng bất cứ ngôn ngữ nào mà họ đang suy nghĩ (Gióp 42:2) (Sura 2:77).
7:8 This is God’s usual way. He tests everyone’s faith (trust), right to the last second, and then, if they ring true, the forfeit is not taken, or the danger will pass away. If they lose their faith, the forfeit will be taken, or the danger will overcome them, whichever is applicable.
7:8 Đây là cách thông thường Thiên Chúa làm. Ngài thử/kiểm tra niềm tin của mọi người (sự tin tưởng), đúng tới giây cuối cùng, và sau đó, nếu nó đúng thật, thì hình phạt không xảy ra, hoặc nguy hiểm sẽ qua đi. Nếu họ đánh mất niềm tin của mình, hình phạt/sự mất mát sẽ xảy đến, hay mối
đe dọa sẽ đánh bại họ, bất cứ cái nào thích hợp.
7:9 Once having passed this exceptional test, Abraham had proved himself worthy of God’s trust, and to
carry the responsibility, of trying to teach his line, to be “children
of God”, by adoption.
7:9 Một khi đã vượt qua được thử
thách ngoại lệ này, Áp-ra-ham đã chứng tỏ mình xứng đáng với sự tín nhiệm của Thiên Chúa, và để gánh vác trách nhiệm
lớn, cố gắng dạy cho hậu duệ của mình, làm "con cái của Thiên
Chúa", bằng cách nhận làm con nuôi.
7:10 God, as a special reward, even told Abraham, telepathically,
where heaven is, but Abraham; not understanding that he was being spoken to
telepathically; thought he was imagining it and just thinking to himself.
7:10 Thiên Chúa, như một phần thưởng đặc biệt, thậm chí nói với Áp-ra-ham,
bằng thần giao cách cảm, vị
trí của thiên đàng, nhưng Áp-ra-ham,
không hiểu rằng ông đã được chỉ cho bằng thần giao cách cảm, nghĩ rằng ông tưởng tượng ra nó và suy
nghĩ với chính mình.
7:11 Whilst looking at the sky one night, Abraham saw the Morning Star and said to himself (God said to him, actually), “This is my Lord.” (Sura 6:76).
7:11 Trong khi nhìn lên bầu trời vào một đêm, Áp-ra-ham thấy Ngôi Sao Mai và tự nói với mình (thực ra Thiên Chúa nói với ông), "Đây là Chúa của tôi." (Sura
6:76).
7:12 Then the devil attacked him, mentally, and confused him, by
showing him the Moon and saying, telepathically, “This is my Lord”, and then, to really
confuse him, the devil showed him the Sun, and other things, and said, “This is
my Lord”; until Abraham didn’t know what to think, and lost his reward from
God.
7:12 Sau đó, ma quỷ tấn công ông, trong óc, và làm ông lẫn lộn, bằng cách chỉ hướng mặt trăng và nói, cũng bằng thần giao cách cảm, "Đây là Chúa của tôi", và sau đó, để thực sự gây nhầm lẫn, ma
quỷ chỉ ông mặt trời, và những
thứ khác, và nói: "Đây là Chúa của tôi", cho đến khi Áp-ra-ham không
còn biết phải nghĩ gì, và mất phần
thưởng Thiên Chúa dành cho.
7:13 A few generations later; from Abraham’s line; a mother was
tested for selfishness, and she decided: it was better to give up her son, than to risk his being
murdered; showing unselfish and therefore real spiritual love (like Solomon’s test for the two
women - 1 kings 3:16, 28). She passed the test, and was then considered worthy,
to teach her son, how to be unselfish. God then arranged for her to have her
son back, and for him to live: like Isaac (Abraham’s test).
7:13 Một vài thế hệ sau, từ hậu duệ của Áp-ra-ham, một bà mẹ cũng được thử sự ích kỷ, và bà đã chọn: tốt hơn nên bỏ con trai mình, hơn là mạo hiểm tánh mạng nó
(dịch ý), thể hiện sự không ích kỷ và cũng là tình yêu phi vật chất/thuộc linh hồn thực sự (giống việc Sa-lô-môn thử hai người phụ nữ - 1
Các vua 3:16, 28). Bà
đã vượt qua bài kiểm tra, và sau đó
được xem là xứng đáng, để dạy
con trai bà, thế nào là vị tha/sự không ích kỷ. Thiên Chúa sau đó sắp xếp cho bà có lại con trai mình, và cho nó được sống: như Isaac/I-xa-ác/Y-sắc (thử thách Áp-ra-ham).
ARMAGEDDON SURVIVAL-PLAN - KEY. For Printed-Version please
contact JAH@JAHTruth.net.
Chìa Khóa – Cẩm Nang – Sinh Tồn Tận Thế. Nếu cần Bản-in, vui lòng
liên hệ JAH@JAHTruth.net
7:14
That woman was the mother of Moses, and not only did Moses live; but he became
a great yet humble man. He grew-up strong in body and faith in God.
7:14
Người đàn bà đó là mẹ của Mô-sê/Môi-se, và không những Mô-sê/Môi-se sống sót,
ông còn trở thành một người đàn ông lớn nhưng khiêm nhường. Ông lớn lên mạnh mẽ
cường tráng cả về thân thể và đức tin vào Thiên Chúa.
7:15
Moses was another great, non-religious man, who talked directly to God, and
strove to do God’s Will. He was another (adopted) “child of God”, with
child-like faith. He put his hand in the Lord’s, and the Lord led him to
greatness, and protected him from evil.
7:15 Mô-sê/Môi-se là người đàn ông lớn, không tôn giáo khác, mà
đã nói chuyện trực tiếp với Thiên Chúa, và đã phấn đấu để thực hiện Thánh Ý Thiên Chúa. Ông là một người "con của Thiên
Chúa" khác (con nuôi), với
đức tin chân thành như con
trẻ. Ông đặt tay mình vào tay
Thiên Chúa, và Ngài đã dẫn ông đến sự vĩ đại, và bảo vệ ông khỏi ma quỷ/điều xấu.
7:16
God worked many miracles for Moses, one of which was the “Burning” Bush, which
was not really burning (energy, not fire) (Exodus 3:2).
7:16 Thiên Chúa đã làm nhiều phép lạ cho Mô-sê/Môi-se, một trong số đó là Bụi cây “Cháy bừng”/Bụi
gai “Cháy”, mà thực ra không
phải đang cháy (năng lượng, không phải lửa) (Xuất hành/Xuất Ê-Díp-Tô Ký 3:2).
7:17
Another was when God let Moses’ spirit show through the flesh of his hand, in
front of pharaoh, and his hand shone with a bright white light (Exodus
4:6)(Sura 7:108).
7:17 Một phép màu khác là khi Thiên Chúa để linh thần/linh hồn của Mô-sê/Môi-se lộ rõ thông qua da thịt bàn tay ông, trước mặt của Pha-ra-ôn và bàn tay của ông tỏa sáng với một
ánh sáng trắng sáng (Xuất hành/Xuất Ê-Díp-Tô Ký 4:6) (Sura 7:108).
7:18
Then God parted the Red Sea, to let Moses’ people escape, and to destroy the
evil Egyptians, who were chasing them. Pharaoh believed, and led his people to
believe, that he was greater than God. The Egyptians were arrogant; perverted;
cruel, and guilty of incest and many other crimes.
7:18 Sau đó, Thiên Chúa đã tách nước Biển Đỏ, để người của Mô-sê/Môi-se trốn chạy, và để tiêu diệt những người Ai Cập tội lỗi, mà đang đuổi theo họ. Pha-ra-ôn
đã tin, và làm cho dân mình tin, rằng ông vĩ đại hơn
Thiên Chúa. Người Ai Cập đã thật kiêu ngạo, biến thái, độc ác, và phạm tội loạn luân cũng như các tội ác khác.
7:19
Using water again, to destroy the Egyptians, gave God the opportunity to kill
the human animals, and to give their souls another chance, like He had done in
the time of Noah (Exodus
14:28).
7:19 Sử dụng nước một lần nữa, để tiêu diệt người
Ai Cập, Thiên Chúa đã cho cơ
hội để giết các động vật-người,
và để ban cho các linh hồn họ
một cơ hội khác, như Ngài đã làm trong thời của Noah (Xuất hành/Xuất
Ê-Díp-Tô Ký 14:28).
7:20 Comparing the Egypt of then, with the Egypt of today; when God said He would destroy Egypt, He was not joking.
7:20 So sánh Ai Cập lúc đó, với Ai Cập ngày nay, khi Thiên Chúa nói rằng
Ngài sẽ tiêu hủy Ai Cập, Ngài
chẳng phải đang nói đùa.
7:21
During the remainder of Moses’ life, God gave His Laws, cut into stone, with
His finger (or a laser?), i.e. The 10 Commandments; The Book (Torah/Old Covenant
or Testament, containing The Laws; the Statutes; the Judgements; the Economic
Policy; the Agricultural Policy; Diet; etc.), for the world to live-by, for EVER (Matt. 5:18).
7:21 Trong phần đời còn lại của Mô-sê/Môi-se, Thiên Chúa đã ban cho các Luật Pháp của Ngài, khắc trên đá, bởi ngón tay Ngài (hay tia
la-de?), tức là 10 Điều Răn; Kinh Thánh (Ngũ Kinh Torah/Hiệp Ước Cũ hay Cựu Ước, có chứa Luật Pháp; các
Điều lệ; các Phán Quyết; Chính Sách Kinh Tế, Chính Sách Nông Nghiệp; Chế Độ Ăn Uống...), để thế giới sống theo, mãi MÃI (Mátthêu/Ma-thi-ơ 5:18).
7:22
God’s Laws are the only Laws of this planet, and, like God, are the same from the
beginning of time, until now, and FOREVER
(Malachi 3:6 & 4:4).
7:22 Luật Pháp Thiên Chúa là luật pháp duy nhất trên hành tinh này, và, như Thiên Chúa, là
không đổi từ khi bắt đầu, cho đến bây giờ, và MÃI MÃI (Malakhi/Ma-la-chi 3:6 & 4:4).
7:23
He also gave Moses, “The Ark of the Covenant”, and told the people to come and
talk to The Ark, when they wanted to communicate with God. At that time, people
still had a very simple mentality, and so, instead of telling them to use
telepathy, which would have been too much to comprehend, God gave them a
dummy-transmitter. It was a material and inanimate object, NOT a PRIEST, so that the people would talk directly to God, and not have
the blind priests leading the blind congregation. The Lord gave them this
non-religious, material object, just to give them confidence, being something
they could see and touch. It was also a place where they could store the Tablets
of Stone, on which The 10 Commandments were written, and the 5 scroll Books of
The Law; Statutes; Judgements; Economic Policy; Agricultural Policy and Diet;
etc.
7:23 Ngài cũng trao cho Mô-sê/Môi-se, "Hòm Bia Chứng Ước/Hòm Bảng Chứng/Rương đựng Giao
Ước/Hiệp Ước giữa con cái Ít-ra-en/Y-sơ-ra-ên với Thiên Chúa", và phán với mọi người đến và nói chuyện với Rương
đó, khi họ muốn nói chuyện với Thiên Chúa. Vào thời điểm đó, con
người vẫn còn tâm lý rất đơn giản, và vì thế, thay vì nói với họ sử dụng thần giao
cách cảm, điều đó có thể sẽ quá phức tạp để lĩnh hội, Thiên Chúa đã cho họ một máy phát tín hiệu
cho có. Nó là một thứ vật liệu hữu hình và vô tri vô giác, KHÔNG phải một LINH MỤC, để mọi người sẽ nói
chuyện trực tiếp với Thiên Chúa, và không phải là các linh mục mù dẫn đầu đoàn mù. Thiên Chúa đã trao cho họ vật thể hữu hình phi tôn giáo này, chỉ để cho họ sự tin cậy, vì nó là một cái gì đó họ
có thể nhìn thấy và chạm vào. Đây cũng là chỗ để họ có thể lưu trữ Bia Đá/Bảng Đá, khắc 10 Điều Răn, và 5 cuộn Sách Luật Pháp, các Điều lệ, các Phán Quyết, Chính Sách Kinh Tế, Chính Sách Nông Nghiệp và Chế Độ Ăn Uống ...
7:24
The building of “The Ark of the Covenant”, would also be a test of the people’s
values, initially and permanently. God asked the people to give up their gold;
silver; brass; precious stones and other valuables, to make The Ark, and
related treasures.
7:24 Việc làm nên "Rương Giao Ước", cũng còn là một bài kiểm tra những
điều mọi người coi trọng, lúc
ban đầu và lâu dài. Thiên Chúa đã yêu cầu mọi người từ
bỏ vàng, bạc, đồng, đá quý và các
vật phẩm có giá trị vật chất khác, để làm Rương đó, và các báu vật vật chất liên quan.
7:25
This was to see if they loved worldly-treasures (mammon, the devil’s values),
more than they loved God. If they gave up these things, voluntarily, it would
prove that they chose God, and heavenly values, in preference to worldly
values. The future, and permanent test, would be to leave The Ark, etc., as a
test; to see if they could resist the devil’s tempting, to take back the
precious metals and stones, etc., from which, it, and the other related
treasures were built.
7:25 Điều này để thử xem họ quý kho tàng vật báu thế gian (tiền tài vật
chất, những giá trị ma quỷ coi trọng), hay yêu mến Thiên Chúa hơn.
Nếu họ từ bỏ những điều đó, một
cách tự nguyện, nó sẽ chứng minh rằng
họ chọn
Thiên Chúa, và các giá trị của thiên đàng, thay vì các giá trị thế
gian. Trong tương lai, bài
kiểm tra lâu dài, sẽ là để lại Rương đó (cùng các vật báu) … để kiểm tra xem họ có thể chống lại cám dỗ của
ma quỷ, để đến lấy lại các
kim loại và đá quý… mà từ đó, chúng, và các báu vật liên quan khác được
dùng để làm nên Rương Giao Ước.
7:26
There are many references, in the Books of Moses, to God’s spaceship, covered by a smokescreen (cloud), which looked like a
cloud of smoke, by day, and a fire, by night. In daylight, the smoke-cloud hid
the spacecraft completely, but, by night, the lights onboard, and the
engines (Exodus 40:38), gave-off a great glare, which mixed with the smoke-screen,
and gave the impression (to people of a very simple mentality) of a fire in the
sky, with great heat and thunder (?) and lightning (?) and strange noises
(Exodus 19:16 & 20:18 & 24:15-17 & Numbers 9:15-16).
7:26 Có rất nhiều tài liệu nhắc đến, trong các Sách của Mô-sê/Môi-se, về tàu vũ trụ (UFO) của Thiên
Chúa, được bao phủ bởi một màn khói (đám mây), mà trông giống
như một đám mây khói, ban
ngày, và như một ngọn lửa, ban
đêm. Trong ánh sáng ban ngày, đám
mây màn khói ẩn tàu vũ trụ hoàn toàn, nhưng vào ban đêm, những
đèn trên tàu, và các động cơ (Xuất hành/Xuất Ê-Díp-Tô Ký 40:38), đã tạo ra ánh sáng chói lòa lớn, lẫn với màn khói, và cho ấn tượng (trong tâm lý rất đơn giản của người xưa) như là lửa cháy trên bầu trời, với sức nóng lớn và chớp (?) và như sấm (tiếng ồn lạ) (Xuất hành/Xuất Ê-Díp-Tô Ký 19:16 &
20:18 & 24:15-17 & Dân số/Dân-số Ký 9 :15-16).
7:27 The people were told not to go near, and were afraid to do so, because of the heat. Some people never do as they are told and did, in the beginning, and were burned (Ex. 19:17, 21 & 20:18).
7:27 Mọi người đã được dặn không được
đến gần, và cũng sợ khi làm vậy, bởi vì nhiệt tỏa ra (từ UFO). Một số người đã cãi lời, lúc đầu, và bị đốt cháy (Xuất hành/Xuất
Ê-Díp-Tô Ký 19:17, 21 &
20:18).
7:28
God also came down in a pillar of smoke, to talk to Moses (Ex. 33:9 &
34:5), so that the people could not see Him.
7:28 Thiên Chúa cũng đi xuống trong một cột khói, để
nói chuyện với Mô-sê/Môi-se (Xuất hành/Xuất Ê-Díp-Tô Ký 33:9 & 34:5), để mọi người không thể
nhìn thấy Ngài.
7:29
On one occasion, Moses’ soul showed through his face, after he had been talking
to God (Ex. 34:29-35), and the people were afraid, so he covered his face, with
a veil.
7:29 Có một lần, linh hồn của Mô-sê/Môi-se lộ qua mặt ông, sau khi ông nói chuyện với Thiên Chúa (Xuất
hành/Xuất Ê-Díp-Tô Ký 34:29-35), và
dân chúng hoản sợ, vì vậy ông
đã che mặt mình, với một tấm
màn che/khăn trùm.
ARMAGEDDON SURVIVAL-PLAN - KEY. For Printed-Version please
contact JAH@JAHTruth.net.
Chìa Khóa – Cẩm Nang – Sinh Tồn Tận Thế. Nếu cần Bản-in, vui lòng
liên hệ JAH@JAHTruth.net
7:30 The smoke-cloud, with the spaceship inside
it, guided the people, and they followed it (Numbers 9:17-23 & 10:34-36), wherever it went. When it
stopped, they stopped and camped, sometimes for days, and when it moved, they followed it.
7:30 Cái đám khói-mây, với tàu vũ trụ (UFO) bên trong, dẫn
đường cho mọi người, và họ theo sau nó (Dân số/Dân-số Ký 9:17-23 & 10:34-36), bất cứ nơi đâu nó đi. Khi nó dừng lại, họ dừng lại và cắm trại, đôi khi trong nhiều ngày, và khi nó di chuyển tiếp, họ theo sau nó.
7:31 The devil had to try to pull the people back, away from God,
so he worked on their egos, making them arrogant and stubborn, because they thought that they
were special in God’s eyes. The Lord became angry with them, on many occasions.
Once, when the people were complaining, the Lord burned some of them to death,
and would have burned more of them, but Moses begged for them to be forgiven
(Num. 11:1-2).
7:31 Ma quỷ phải cố gắng để kéo mọi người trở lại, khỏi Thiên Chúa, do đó hắn đã dùng cái tôi của họ, làm cho họ trở nên kiêu ngạo và bướng bỉnh, vì họ nghĩ rằng họ đặc biệt
trong mắt của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã rất nổi giận với
họ, nhiều lần. Một lần, khi mọi người đang phàn nàn, Thiên Chúa đã đốt chết một số, và có thể đã đốt chết nhiều hơn nữa, nếu như Mô-sê/Môi-se không cầu xin cho họ (Dân số/Dân-số ký 11:1-2).
7:32 Over many generations, they became worse and worse, and Satan
converted their belief into an organized-religion. They made up their own laws,
customs and traditions (the Talmud), to allow themselves to break God’s Commandments (Mark 7:6-13).
7:32 Qua nhiều thế hệ, họ càng trở
nên tệ hại hơn và hơn
nữa, và Satan chuyển đổi niềm tin họ
thành một tổ chức tôn giáo. Họ
đã tự tạo nên pháp luật riêng
của họ, các phong tục và truyền
thống (Talmud), tự cho phép mình phá vỡ các Điều Răn của Thiên Chúa
(Máccô/Mác 7:6-13).
7:33 The problems arose, because the people stopped communicating directly with God, and started to listen to priests, and
became the blind, being led by the blind (Matt. 15:14)(Hosea 4:9).
7:33 Các vấn đề phát sinh, bởi vì mọi người
không còn nói chuyện trực tiếp với Thiên Chúa, và bắt đầu lắng nghe
các linh mục, và trở nên đui mù, được dẫn dắt bởi kẻ
mù khác (Mátthêu/Ma-thi-ơ 15:14) (Hôsê/Ô-sê 4:9).
7:34 They eventually became so arrogant and blind, that, when
Jesus came, the Jews refused to accept his “soul” (spirit-Being), as that of God’s oldest Son, and
they still do refuse to accept him, and his teachings. They also refuse to
accept, that Mohammed brought more Messages, from God, into the world.
7:34 Cuối cùng, họ trở nên quá kiêu ngạo và mù quáng, đến nỗi, khi Chúa Giêsu đến, người Do Thái từ chối công nhận "linh hồn" (thần-Linh/Linh-thần) trong Giêsu, là Con Trưởng của Thiên
Chúa, và họ vẫn còn chối Chúa, và các giảng dạy của Ngài. Họ cũng từ chối chấp nhận, rằng
Mohammed đã mang nhiều Thông Điệp khác, từ Thiên Chúa, đến thế
giới.
7:35 The devil has them so tied-up, in their religious arrogance, that he has been able to con them, perfectly, TWICE, into not listening to Jesus’ and Mohammed’s
Messages from God, and THEY think that they are really
smart.
7:35 Ma quỷ đã làm chọ họ bị trói chặt, vào sự kiêu ngạo tôn giáo họ, từ đó hắn đã có thể lừa họ, hoàn toàn, HAI LẦN, làm họ không nghe Chúa Giêsu và các Thông điệp mà
Mohammed mang từ Thiên Chúa,
và HỌ nghĩ rằng họ thực sự rất thông minh .
7:36 It was their priests, and religion, that nailed the
human-animal-body; that God’s Son was using; onto the cross.
7:36 Các linh mục của họ, và tôn
giáo, đã đóng đinh thân
xác-động vật-người, mà Con Trai Thiên Chúa đã sử dụng,
trên thập tự giá.
7:37 Their arrogance, in thinking that they are still God’s chosen
people, and that they are the only ones who will survive the Last-Day; when
they claimed responsibility for the murder of Jesus, and refused to
accept his teachings, clinging to their evil RELIGION, which is what killed
Jesus; is absolutely ludicrous.
7:37 Sự kiêu ngạo của họ, trong suy nghĩ rằng họ là tuyển dân của Thiên Chúa, và rằng họ là những người duy
nhất sẽ sống sót qua Ngày-Cuối, khi họ tự nhận trách
nhiệm cho cái chết của Chúa Giêsu,
và từ chối chấp nhận lời Chúa dạy, bám vào TÔN GIÁO tội lỗi của họ, là thứ đã giết Chúa Giêsu, là hoàn toàn lố bịch.
7:38 The cursing of the “Fig tree”, which is the scriptural symbol
for the Jews (Matt. 21:19-20), means that Jesus cursed the Jews, and they have remained cursed
and punished, and hated and persecuted, ever since. This was done, in order to teach them that
Talmudic Judaism is evil, and thereby encourage them to leave Talmudic Judaism; turn to The
Torah, and partake of the New Covenant.
7:38 Lời rủa "cây Vả",
là biểu tượng Kinh Thánh cho
người Do Thái (Mát-thêu/Ma-thi-ơ 21:19-20), có nghĩa rằng Chúa Giêsu đã rủa người Do Thái, và họ vẫn còn bị rủa và trừng phạt, và bị ghét và bắt bớ, kể từ đó. Điều này có nguyên do
(dịch ý), là để dạy cho họ rằng Do Thái Giáo theo sách Talmud
là tội lỗi, và bởi vậy khuyến khích họ rời bỏ Do Thái giáo (theo sách Talmud), đón nhận Ngũ Kinh Torah, và dự phần vào Giao Ước Mới.
7:39 The Jews, 2000 years ago, said, “Let His blood be on us and on our children” (Matt. 27:25),
meaning, let US be punished for murdering
Him, instead of Pontius Pilate.
7:39 Người Do Thái, cách đây 2000 năm, nói
rằng, "Hãy để họ và con cháu họ gánh lấy máu Chúa" (Mátthêu/Ma-thi-ơ 27:25), có hàm ý, để CHÚNG TÔI bị trừng phạt
vì đã giết Chúa, thay vì Bôn-xơ Phi-la-tô/Phi-lát (phải chịu).
7:40 Jesus, and ALL of the Prophets, have taught humility, childlike faith and the destruction of selfishness, so that the devil has less chance to use your ego, to fool you. Whilst ever you have an ego, the devil can use it.
7:40 Chúa Giêsu, và TẤT CẢ các nhà Tiên tri, đều dạy sự khiêm tốn, đức tin (chân thành) như con thơ và sự phá hủy tính ích kỷ, để ma quỷ có ít cơ hội lợi dụng cái tôi của con, để lừa con. Một khi con còn cái tôi, ma quỷ còn có thể sử dụng nó.
7:41 It is their ARROGANCE,
in believing that they alone are chosen, above all other people, that has
created anti-Semitism and supposedly caused Hitler, who was a Satanist and the
anti-Christ (666 - Rev. 13:18 - Hitler claimed he would have a 1000 year
Reich/rule, as the reign of Christ on Earth [yet to come]; incendiary-bombs,
etc. - 13:13; Deutsch-Mark in the hand and Marx in the forehead - Rev. 13:16;
resurrecting, i.e. giving life to the first beast, which had the wound by the
sword and lived - 13:14, i.e. the Roman Empire - Hitler styled himself on the
Roman Empire and used its emblems, i.e. the eagle and the swastika), who
himself was an AshkeNAZI, (Genesis 10:3) Japhethite, not Semite,
counterfeit-Jew (Revelation 2:9) who was financed and installed as Chancellor
of Germany by Zionist, AshkeNAZI, Japhethite, not Semite, counterfeit-Jewish
banksters (Revelation 3:9), to allegedly try to wipe-them-out, and the P.L.O.
to hate them. Hitler was the midwife who facilitated the birth of the Zionist,
AshkeNAZI, counterfeit-Jewish state in Israel.
7:41 Đó là SỰ KIÊU NGẠO của họ, khi tự họ cho rằng mình là tuyển dân, trên tất cả mọi người khác, đã tạo ra chủ
nghĩa bài Do thái và được cho là nguyên
do tạo nên Hitler/Hít-le, kẻ thờ Satan và chống Chúa (666 – Khải-huyền 13:18 {Kẻ nào thông minh, hãy tính
số con thú, vì đó là một số người/Thiên Chúa tạo nên con người vào ngày thứ 6
--> đây là chú thích thêm của người dịch<--; số nó là sáu trăm sáu mươi
sáu.} – Hít-le tuyên bố hắn sẽ có 1000 năm Reich/cai trị, như sự ngự trị của Chúa trên trái đất [hãy còn chưa đến/Thiên Niên Kỷ thứ 7 sắp đến,
cho những ai sống qua được Ngày Phán Xét], bom cháy - Khải-huyền 13:13 {đoạn trích Kinh thánh: Nó làm những
dấu lạ lớn lao, khiến cho ngay cả lửa từ trời cũng rơi xuống đất} thích
dấu (Deutsch-Mark) trên tay hữu và (Marx) ở trán – Khải-huyền 13:16{ Nó cũng khiến mọi người, nhỏ
và lớn, giàu và nghèo, tự chủ và tôi mọi, đều chịu ghi dấu hoặc trên tay hữu,
hoặc trên trán}; làm sống lại, tức là mang lại sự sống
cho con thú đầu tiên, mang vết thương do thanh kiếm và sống - 13:14 {con
thú đã bị thương bằng gươm và đã sống lại}, tức là Đế quốc La Mã - Hitler theo kiểu đế chế La Mã và sử dụng biểu tượng
của nó, nghĩa là đại bàng và hình chữ vạn), kẻ cũng là một Ashkenazi/ Át-cơ-nát/Ách-kê-na
(Sáng-thế Ký 10:3) con cháu của Japheth/Gia-phét/Gia-phết, không phải con cháu của Shem/Sêm/Sem, giả-Do Thái (Khải-huyền 2:9) được tài trợ tài chánh và cài đặt làm Thủ Tướng Đức bởi
hội quỷ Satan (nói tới trong Khải-huyền) Ashkenazi/Át-cơ-nát/Ách-kê-na, là con cháu Japheth/Gia-phét/Gia-phết, không phải con cháu Shem/Sêm/Sem, chúng là bọn giả Do Thái và là bọn tội phạm tài phiệt (Khải huyền 3:9), cố gắng để quét sạch người Do Thái, và làm cho PLO/Tổ chức Giải phóng Palestine ghét họ. Hitler là bà đỡ đã tạo điều kiện cho sự ra đời của hội quỷ
Satan/Zionist, Át-cơ-nát/Ách-kê-na, nhà nước giả Do Thái ở Israel.
7:42 The major factor in the war, between the Israelis and the
P.L.O., is RELIGIONS. If they both get rid of their stupid, evil,
organized-religions, there is no REAL difference between them;
they are not only both gentiles, but also Venusians. Although the Arabs are Semites and the AshkeNAZI counterfeit-Jews are NOT Semites, but are Japhethites (Genesis 10:3) who
therefore are NOT “God’s Chosen” and have no Biblical God-given
right to the Holy Land.
7:42 Nguyên nhân chính của cuộc chiến, giữa Israel và PLO, là TÔN GIÁO. Nếu cả hai cùng dẹp hết các tổ chức tôn giáo ngu
ngốc, tội lỗi của họ, thì
không có sự khác biệt THỰC SỰ giữa họ, họ không chỉ cùng
là dân ngoại/người ngoại (những
người không lập Giao Ước với Thiên Chúa), mà còn là các cư dân Sao
Kim (các linh hồn họ). Mặc dù người Ả
Rập là Semites (con cháu Shem/Sêm/Sem) và người Ashkenazi/Át-cơ-nát/Ách-kê-na giả Do Thái thì không, nhưng là Japhethites, con cháu Japheth/Gia-phét/Gia-phết (Sáng-thế ký 10:3) do đó họ KHÔNG phải
là "tuyển dân của Thiên Chúa" và không có quyền
gì trên Đất Thánh (nói về lời
hứa Thiên Chúa trong Kinh Thánh).
7:43 If they can not live together, peacefully, and share what
they have, with each other, here on Earth, then God is CERTAINLY not going
to let them come home, and will destroy BOTH nations, on the Last-Day,
starting with all of the priests.
7:43 Nếu họ không thể sống chung với nhau, một
cách hòa bình, và chia sẻ những gì họ có, với nhau, ở đây trên Trái đất, thì Thiên Chúa CHẮC CHẮN sẽ không để cho họ trở về nhà, và sẽ tiêu
diệt CẢ HAI quốc gia, trong Ngày-Cuối, bắt đầu với tất cả các linh mục.
Xem tiếp Chương 8
Xem tiếp Chương 8
****Chú thích thêm:
Shem/Sêm/Sem, Ham/Kham/Cham, Japheth/Gia-phét/Gia-phết
là 3 người con trai của Noah/No-ê sau Đại hồng thủy. (hết Chương 7)
Download the FREE PDF version at: http://thewayhomeorfacethefire.net/
All correspondence please to jah@gibraltar.gi
or to:-
JAH, JAH Publications, P. O. Box 2129, Canvey Island, SS8 9UF, England, U.K.
Any support or donations to assist in our on-going research and promotion of "The Long Awaited Truth of All Things on Planet Earth" would be very much appreciated.
Any support or donations to assist in our on-going research and promotion of "The Long Awaited Truth of All Things on Planet Earth" would be very much appreciated.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét