ARMAGEDDON SURVIVAL-PLAN - KEY. For Printed-Version please
contact JAH@JAHTruth.net.
CHÌA KHÓA- CẨM NANG – SINH TỒN TẬN THẾ. Nếu muốn ủng hộ, xin vui
lòng mua Bản-in (tiếng Anh), liên hệ JAH@JAHTruth.net
CHAPTER 4
CHƯƠNG 4
The first test and regression to
following Satan.
Thử
Thách Đầu và
Việc Đi Thoái Lui vì theo Satan.
4:1
Once the prison, and the human-animals, had been designed and created, and the
souls locked inside, God started the teaching and testing process.
4:1 Một khi nhà tù, và các động vật-người, đã được
thiết kế và kiến tạo, và các
linh hồn bị nhốt vào trong (các động
vật-người), Thiên Chúa bắt đầu quy trình giảng dạy và kiểm tra.
4:2
The first and very simple test, was in the Garden of Eden, when the devil
tempted Eve (woman), with the apple. The devil told Eve, that, if she ate the
apple, she would become like God (another lie) (Genesis 3:5).
4:2 Thử thách đơn giản đầu tiên, trong vườn Eden/vườn Địa Đàng, khi ma
quỷ cám dỗ Eve (phụ nữ), với trái
táo. Ma quỷ nói với Eve, rằng, nếu cô ăn trái táo, cô sẽ trở nên giống như Thiên Chúa
(một lời nói dối khác) (Sáng thế ký 3:5).
4:3
Being closer to the devil, than Adam (man); on a spiritual level, and having
less will-power (the will is the eye of the soul), and therefore more easily
used by the devil; she gave-in to temptation, disobeyed God and ate the apple.
Satan tempted Eve first; instead of tempting Adam; because he knew that she
would be more likely to give-in, than Adam. Eve, having failed her own test, was not content with that, she had to get Adam into trouble, too.
4:3 Do gần ma quỷ, hơn Adam (đàn ông), trên thứ bậc tâm linh, và có ít sức mạnh ý chí hơn (ý chí là con mắt của linh hồn), và do vậy dễ bị sử dụng bởi ma quỷ hơn, cô đã khuất phục trước cám dỗ, không vâng lời Thiên Chúa và ăn trái táo. Satan cám dỗ Eve trước, thay vì Adam, bởi vì hắn biết rằng cô sẽ dễ đầu hàng, hơn Adam. Eve, đã thất bại trong bài kiểm
tra của chính cô, không bằng
lòng với điều đó, cô phải kéo Adam vào rắc rối, cùng
mình.
4:4
The will is the eye of the soul, because the more will-power a soul has, to resist temptation, the nearer
it is, to going home. The Lord measures
a soul, by its power to resist temptation from Satan, and by the good it does for others.
4:4 Ý chí là mắt của tinh thần/linh hồn, bởi khi một linh hồn càng có nhiều sức mạnh ý chí, để cưỡng lại sự cám dỗ, nó càng gần, đường về
hơn. Thiên Chúa cho điểm linh hồn (dịch ý), dựa trên sức mạnh (ý chí) nó chống
lại sự cám dỗ từ Satan, và bởi những việc tốt nó làm cho mọi người.
4:5
The serpent, that tempted Eve, was Satan (Rev. 12:9), who; having tricked Eve,
causing her to fail her test; then manipulated her and used her to attack Adam (Matt. 10:36), using her sex-appeal. Adam then also
failed his first test, because he foolishly
loved Eve more than God (Matt. 10:37),
and doing good, and followed her advice (the Devil’s really), instead of God’s
advice.
4:5 Con rắn xưa, mà cám dỗ Eve, chính là
Satan (Khải huyền 12:9), kẻ; đã lừa Eve, làm cô rớt bài kiểm tra; sau đó đã
thao túng cô và sử dụng cô
để gây ảnh hưởng tới Adam (Mátthêu/Ma-thi-ơ 10:36), bằng cách dùng sự hấp dẫn giới tính của cô. Adam sau đó cũng đã rớt
bài kiểm tra đầu tiên của mình, bởi anh ta ngu ngốc yêu Eve nhiều hơn Thiên Chúa (Mátthêu/Ma-thi-ơ 10:37), và hơn làm việc tốt, và nghe lời Eve (thật ra là lời của Satan), thay vì nghe lời Thiên Chúa.
4:6
The simple story; of Adam (man) and Eve (woman), and the trees of the
“Knowledge of Good” (God) and the “Knowledge of Evil” (d/evil); seems never to have been understood, by anyone on Earth, and yet it is
very straight-forward, and easy to understand.
4:6 Câu chuyện đơn giản, của Adam (đàn ông) và Eve (phụ nữ), và các cây
nguồn "Kiến thức về điều Tốt lành" (Thiên
Chúa) và "Kiến thức về điều Xấu" (Satan); dường như chưa bao giờ được hiểu
đúng, bởi bất cứ ai trên trái Đất, và nó thực sự rất dễ hiểu, và dễ dàng để hiểu.
4:7
God walked in the Garden of Eden with
Adam and Eve, and talked with them,
teaching them to eat (digest) the “Knowledge of Good” (His truth), and warned
them not to eat from the “Tree of the Knowledge of Evil” (Satan’s lies), or
they would die.
4:7 Thiên Chúa đi trong Vườn Địa Đàng với Adam và Eve, và nói chuyện với họ,
dạy họ ăn (lãnh hội) "Kiến
thức về điều Tốt" (sự
thật của Ngài), và cảnh báo họ không
nên ăn từ "Cây nguồn Kiến thức về điều Xấu "(các lời dối của Satan), nếu ăn họ
sẽ chết.
4:8
They already had access, to the fruit of the “Tree of the Knowledge of Good”,
and were eating it, and, if they ate from the “Tree of the Knowledge of Evil”,
they would then know that there was good, and evil, and become confused. In
their confusion, they would never
find their way home, and would die.
4:8 Họ đã biết đường vào, trái lành của "Cây nguồn Kiến thức về điều Tốt", và đang lãnh hội (ăn) nó, và, nếu họ ăn (trái đắng) từ "Cây nguồn Kiến thức về điều
Xấu", họ sau đó sẽ biết rằng có
tốt, và xấu, và sẽ lẫn
lộn. Trong sự lẫn lộn của họ, họ sẽ không bao giờ tìm thấy đường về, và sẽ chết.
4:9 If they obeyed God, there would be no confusion, or conflict, in their minds, and they would learn only good, from God - the Tree (or source) of the Knowledge of Good (TRUTH), quickly and easily, and live forever. As they learned from God’s teachings, they would become more and more like Him, until, once they became enough like Him (like Jesus’ example), they would be pardoned and then released from this planet (Earth), and allowed to go home, back to their real homes and families, out in the Universe, and LIVE forever.
4:9 Nếu họ vâng lời Thiên Chúa, thì sẽ không có sự mơ hồ nào, hay xung đột, trong tâm trí họ, và họ sẽ chỉ học điều tốt, từ Thiên
Chúa – Cây nguồn (hay
suối nguồn) của Kiến thức về điều Tốt (SỰ THẬT), nhanh chóng và dễ dàng, và sống mãi. Khi họ học
từ sự giảng dạy của Thiên Chúa, họ sẽ trở nên ngày một giống và giống
Ngài hơn, cho đến khi, một khi họ đã
trở nên đủ giống Ngài (như tấm gương Chúa Giêsu), họ sẽ được tha thứ và sau đó
được phóng thích khỏi hành tinh này (Trái Đất), và được phép về nhà, trở về quê
hương thật và gia đình thực
sự của họ, trong Vũ trụ, và SỐNG mãi.
4:10
God was telling them: “In the day that you listen to that liar again, instead
of to Me - eat from the Tree (source) of the Knowledge of Evil (lies) - you
will die (Gen. 2:17 & Deut. 30:15).”
4:10 Thiên Chúa đã nói với họ: "Cái ngày mà con nghe theo kẻ dối trá đó một lần nữa, thay vì Ta - ăn từ Cây (nguồn) của Kiến thức về
điều Xấu (những lời dối trá) - con sẽ chết
(Sáng thế ký 2:17 &
Đệ nhị luật/Phục truyền luật lệ ký 30:15).
"
4:11
The serpent (Satan the liar/devil) told Eve that God was lying to her, and that
if she believed him,
instead of God, she would be like God, which, of course, coming from the liar
(devil), was a LIE.
4:11 Con rắn xưa (Satan kẻ nói
dối/ma quỷ) nói với Eve rằng Thiên Chúa đang ghạt cô, và rằng nếu cô tin hắn, thay vì Thiên Chúa, cô sẽ trở nên giống như Thiên Chúa, và, tất nhiên, đó là lời từ kẻ nói dối (ma quỷ), là
một SỰ DỐI
TRÁ.
4:12
Eve believed the liar (devil), instead of God, and convinced Adam to believe
the liar too, repeating,
for a second time, the “original sin” that had caused the war, and, from
that day; EXACTLY as God (the TRUTH/WORD - John 1:1-5) told them; people have
been dying ever since.
So God told you the TRUTH, as He always
does, and Satan deceived you all, yet
again (Rev. 12:9), as he still does today.
4:12 Eve đã tin kẻ dối trá đó (ma quỷ),
thay vì tin Thiên Chúa, và đã
thuyết phục Adam tin theo hắn
luôn, lặp lại, một lần nữa (lần thứ hai), "tội nghiệp căn nguyên (tội
tổ tông, tội nguyên tổ, nguyên tội)"
mà đã gây ra cuộc chiến
xưa (trên Thiên Đàng), và từ ngày
đó; ĐÚNG như Thiên Chúa (SỰ
THẬT/NGÔI LỜI- Gioan/Giăng 1:1-5) đã nói với họ, con người bắt
đầu chết kể từ đó. Cũng thế, Thiên Chúa đã nói với con SỰ
THẬT, như Ngài luôn làm, và Satan đã lừa dối tất cả các con, một lần nữa (Khải huyền 12:9), như hắn vẫn làm cho đến ngày nay.
4:13
So the war, that Lucifer started in heaven, with his slanderous lies, has
continued, in a war between
good (God) and evil (devil), here on Earth, ever since, killing billions of
human bodies.
4:13 Thế là cuộc chiến, mà Lucifer/Lu-xi-phơ đã khởi đầu trên trời, với những lời dối trá vu khống của hắn, vẫn tiếp diễn, trong cuộc chiến giữa thiện (Thiên Chúa)
và ác (ma quỷ), ở đây trên Đất, từ đó, giết hại hàng tỷ cơ thể-người.
4:14
By believing the liar/devil, instead of God, Adam (man) and Eve (woman) were
calling God a liar/devil, and the liar/devil God. God says: “Woe to those who
call good (God), evil (devil) and evil, good”.
4:14 Bằng việc tin kẻ nói dối/ma quỷ, thay vì tin Thiên Chúa, Adam (đàn ông) và Eve (phụ nữ)
đã và đang gọi Thiên Chúa là
kẻ nói dối/ma quỷ, và gọi kẻ nói dối/ma quỷ
là Thiên Chúa. Thiên Chúa nói: "Khốn khổ cho những ai gọi điều thiện/tốt (Thiên Chúa), là điều ác/xấu (ma quỷ) và gọi
điều ác, là điều tốt".
ARMAGEDDON SURVIVAL-PLAN - KEY. For Printed-Version please
contact JAH@JAHTruth.net.
CHÌA KHÓA SINH TỒN TẬN THẾ - LIÊN HỆ JAH@JAHTruth.net để có bản in (tiếng Anh) hoặc download tại thewayhomeorfacethefire.net , địa chỉ không thể bỏ qua cho những ai đọc
được tiếng Anh, http://jahtruth.net.
4:15 Thus began the confusion and chaos, in people’s minds, that
has continued ever since - the conflict and not knowing what is good/truth, and what is evil/lies
(only that they both exist) and the ongoing insanity.
4:15 Theo cách đó khởi nguồn sự lẫn lộn và hỗn loạn, trong tâm trí của mọi người, mà vẫn tiếp tục tới giờ - sự mâu thuẫn và không biết điều gì là tốt/sự thật, và điều gì là xấu/những lời dối trá (chỉ vì cả hai cùng tồn tại) và sự
khùng điên đang diễn ra.
4:16 INSANITY is:- choosing to believe that a lie is true, and
that the truth is a lie.
4:16 KHÙNG
ĐIÊN nghĩa là: - Chọn tin lời dối trá và coi đó như sự thật,
và xem sự thật là lời dối
trá.
4:17 The ONLY way to LIVE, is to STOP listening to the liar/devil, and believe ONLY GOD, as Abraham did, and thereby, became the
“Friend of God” (2nd. Chronicles 20:7 & Isaiah 41:8)(James 2:23).
4:17 Đường DUY NHẤT để SỐNG, là ĐỪNG nghe kẻ dối trá/ma quỷ nữa, và CHỈ tin Thiên Chúa thôi, như Abraham đã làm, và bằng cách
đó, trở thành "Bạn của Thiên Chúa" (II Sử biên/Sử
ký 20:7 & Isaia/Ê-sai 41:8) (Giacôbê/Gia-cơ 2:23 Phiên âm đầu là Kinh Thánh
Công Giáo, tiếp sau là Tin Lành)
4:18 Jesus’ true teachings are designed to “Reverse the Fall of Man”, by being “Born again as your spirit (Being - John 3:5-6)” – your real self; keeping the COMMANDments; DOING God’s Will (learning directly from God how to be perfect - like God, in His eyes, not man’s eyes). Jesus (the WORD/TRUTH made flesh - JOHN 1:1-5) is also known as the “Second Adam” - to reverse “The Fall”, caused by the first Adam believing Satan.
4:18 Những giảng dạy đích thực của Chúa Giêsu là để "Đảo ngược Sự Sa Ngã của loài người", bằng cách "Tái sanh một lần nữa để thành linh thần/thần
khí của con (Linh – Gioan/Giăng 3:5-6)" – linh dạng thật của con, giữ các ĐIỀU RĂN; LÀM THEO Thánh Ý Thiên Chúa (học
trực tiếp từ Thiên Chúa làm thế nào để được hoàn hảo - giống như Thiên Chúa, dưới mắt Ngài, không phải dưới mắt người). Chúa Giêsu (NGÔI LỜI/SỰ THẬT đã trở nên người phàm/đã trở nên xác thịt – GIOAN/GIĂNG 1:1-5) còn được biết đến như là "Adam thứ Hai" để đảo ngược "Sự Sa Ngã/Sa vào tội lỗi", gây ra bởi Adam đầu tiên vì tin Satan.
4:19 In the Garden of Eden there was no work, only learning:
everything else was provided by God.
4:19 Ở trong Vườn Eden không cần làm việc, chỉ có học: mọi sự khác được chu cấp bởi Thiên Chúa.
4:20 Woman (Eve) created work, by listening to Satan, and has been doing so ever since.
4:20 Đàn bà (Eve) đã tạo ra công việc, bởi vì nghe theo Satan, và đang tiếp tục làm vậy cho tới tận
bây giờ.
4:21 God’s first COMMANDment (it is the first,
because it is the MOST important) states that YOU must love God, first, above and beyond EVERYTHING else, and love Him with all your heart, and with all your soul, and with all your mind, and with all your strength (every ounce of it - Mark 12:30),
and Him ONLY shall you serve (Matt. 4:10).
4:21 ĐIỀU
RĂN đầu của Thiên Chúa (là điều
đầu tiên, bởi nó là điều quan
trọng NHẤT) nói rằng CON phải yêu mến Thiên Chúa, trước nhất, trên tất cả và vượt ra ngoài MỌI THỨ khác, và yêu
mến Ngài với tất cả lòng mình, và với tất cả hồn mình, và với tất
cả trí mình, và với tất cả
năng lực mình (mỗi một
gam nó – Máccô/Mác 12:30), và Ngài là Đấng DUY
NHẤT con phụng sự (Mátthêu/Ma-thi-ơ 4:10).
4:22 Adam started a tradition, that has survived for thousands of years, which is:- loving woman first, and God (good) second, thereby breaking the first and most important COMMANDment, upon which all the others hang.
4:22 Adam khởi đầu một truyền thống, mà đã tồn tại qua hàng ngàn năm, đó là: yêu đàn bà đầu tiên, và sau đó mới tới Thiên Chúa (sự tốt lành), bằng cách đó vi phạm ĐIỀU RĂN/MỆNH LỆNH đầu
tiên và quan trọng nhất, là
Điều Răn khởi nguồn của tất cả các điều
khác.
4:23 This has caused, and still is causing, most of the
trouble in the world, and God will allow women to continue punishing men,
with heart-ache, etc., until man learns to put God (pure love) first, and woman (sex) second, or he runs out of time: whichever comes first.
4:23 Điều này đã gây ra, và vẫn đang gây ra, hầu hết mọi sự rắc rối trên thế giới, và Thiên Chúa sẽ
cho phép phụ nữ tiếp tục hành hạ đàn ông, làm họ đau khổ… cho đến khi đàn ông biết đặt Thiên Chúa (tình yêu tinh khiết) trước, và phụ nữ (tình dục) sau, hoặc anh ta hết thời gian: tùy điều nào đến trước.
4:24 Man must learn to DO God’s Will, and not woman’s will, which is often actually Satan’s will (he manipulates the souls, that are locked inside women’s bodies, to pull the souls locked-inside men’s bodies back to earth, and keep them here in prison), or the world will continue to accelerate in a backwards direction (Amos 4:1 & Isaiah 3:12-24).
4:24 Đàn ông phải học LÀM theo Thánh Ý Thiên Chúa, không phải ý muốn của
phụ nữ, mà thực ra thường là ý muốn của Satan (hắn thao túng các linh hồn, bị nhốt bên
trong cơ thể phụ nữ, để kéo các
linh hồn bị nhốt bên trong cơ thể đàn ông trở lại
dưới đất, và giữ chúng ở đây trong
tù), hoặc thế giới sẽ tiếp tục tăng tốc
theo hướng đi lui (A-mốt 4:1 Isaia/Ê-sai 3:12-24).
4:25 Women persuade men to do evil for them, for sex, which can
mean cheating-on, or leaving their wives and families; killing; stealing;
fighting; or working themselves to death, just to buy worldly, and therefore
temporary treasures for them. To quote the “Picture of Dorian Gray”, by Oscar
Wilde, referring to women, as spoken by a friend of Dorian: “They have got it;
we want it; and people are making millions in between.” (Rev. 18:3-20).
4:25 Phụ nữ thuyết phục đàn ông làm điều xấu cho họ, đổi lấy sex/tình dục, nó có thể là ngoại tình, hoặc bỏ vợ con và gia đình, giết người, ăn cắp, đánh nhau hoặc làm việc cho đến chết, chỉ để mua vật
chất thế gian, các của cải có giá trị nhất thời cho họ. Trích dẫn truyện "Bức
chân dung Dorian Gray" của
Oscar Wilde, đề cập đến phụ nữ, mà một người bạn của Dorian nói: "Họ có cái, chúng ta muốn, và mọi người đang kiếm tiền triệu từ đó." (Khải huyền 18: 3-20).
4:26 Instead of doing these evil things, man should be learning to
be like Jesus, and doing God’s Will, and should be working for God, by fighting against evil, wherever and whenever he finds it, for the
benefit of all mankind, and, at the same time, he will be
setting a good example, for others to follow, especially his children (Matt.
10:37-38)(Sura 9:23-24).
4:26 Thay vì làm những điều xấu đó, đàn ông đáng ra nên học để trở nên giống Chúa Giêsu, và làm theo Thánh Ý của Thiên Chúa, và đáng ra
nên làm việc cho Thiên Chúa, bằng
cách đấu tranh chống lại cái ác, bất cứ nơi đâu anh ta thấy, vì lợi ích của tất cả nhân loại,
và, cũng bởi như vậy, anh ta sẽ làm nên một gương tốt, cho những người khác noi theo, đặc biệt
là con cái của anh ta (Mátthêu/Ma-thi-ơ 10:37-38) (Sura 9:23-24).
4:27 His wife’s place is to take care of the children, and to feed him and keep his clothes and home clean, and to give him moral support, to keep him going, so that he can earn his right to go home. If she does this, she is also going forward, towards becoming a perfect lady, wife and mother; eventually earning the right to be a man. “Behind every great man, there is a relatively good woman.”
4:27 Vị trí của vợ anh là chăm lo
cho con cái, và làm công việc nội trợ gia đình, giữ áo
quần và nhà cửa sạch sẽ, và hỗ trợ tinh thần cho
anh, để giữ anh tiếp tục đường
ngay, để anh có thể giành được quyền trở về. Nếu vợ anh làm như vậy, cô ta
cũng sẽ đi theo đường ngay, trở thành một phụ nữ, vợ và mẹ hoàn hảo, cuối
cùng giành được quyền thành một người
đàn ông. "Đằng sau mỗi người đàn ông tuyệt vời, là một người phụ nữ tương
đối tốt."
4:28 Man must learn not to break the COMMANDments, and then, to use his superiority of strength, both mental and physical, GENTLY, along with his better understanding of
spiritual love, to persuade woman not to break the COMMANDments either. If not, the world will continue to
go backwards, until God has no alternative,
except to destroy all the evil souls.
4:28 Đàn ông phải học cách không vi
phạm các ĐIỀU RĂN, và qua đó, dùng ưu thế về sức mạnh của mình, cả tinh
thần và thể chất, TỪ TỐN, cùng với sự hiểu biết tình yêu tinh thần tốt hơn, thuyết phục phụ nữ cùng làm vậy
(giữ các ĐIỀU RĂN). Nếu không, thế
giới sẽ tiếp tục đi lùi, cho
đến khi Thiên Chúa không còn lựa chọn nào khác, ngoại trừ việc tiêu hủy tất cả
các linh hồn ác.
4:29 Don’t fool yourselves into thinking that
YOU are good. You are NOT! (ISAIAH 64:6-7). If you were good, you would not be here; you would already have gone
home. God does not keep good people in prison.
4:29 Đừng đánh lừa mình khi nghĩ rằng CON tốt. CON KHÔNG hề! (ISAIA/Ê-SAI 64:6-7). Nếu con đúng tốt, con sẽ không ở đây, con đã đi về rồi. Thiên Chúa không
giữ người tốt trong tù.
4:30 It is impossible for man, to do what he should, until he learns to worship pure love (God), instead of sex (one of the devil’s weapons), and to know the difference, between the two.
4:30 Mọi sự như bất khả thi cho đàn ông,
để làm điều anh ta nên làm, cho tới khi anh ta học cách tôn vinh tình yêu tinh khiết (Thiên Chúa), thay vì sex/tình dục (một trong những vũ khí của Satan), và biết
phân biệt sự khác biệt, giữa hai thứ.
4:31 Jesus gave his love to the world, instead of to a woman; pure
and unselfish spiritual love, as opposed to selfish animal love (emotion); and voluntarily made
himself into a eunuch (metaphorically, Matt. 19:12, third type), for God and the world’s
sake.
4:31 Chúa Giêsu dành tình yêu của Chúa cho thế giới, thay vì cho
một người phụ nữ, tình yêu
tinh thần vị tha và thuần khiết, trái ngược với tình
yêu động vật ích kỷ (cảm xúc), và tự nguyện không kết hôn (Mátthêu/Ma-thi-ơ 19:12),
vì Thiên Chúa và vì lợi ích của
thế giới.
4:32
The other reason that he was alone, was because, loving a woman, in a
personal-relationship, would have created a conflict of interests, and it would
have interfered with his mission. A good soldier ALWAYS puts his mission first, even above and before his own life.
“A man has to do, what a man
has to do.”
4:32 Lý do khác mà Chúa Giêsu không cưới vợ, là bởi vì, khi yêu một người phụ nữ, trong một mối quan hệ
riêng tư, sẽ tạo ra xung
đột lợi ích, và nó có thể đã
ngây hại tới sứ mệnh của Chúa. Một chiến sỹ tốt LUÔN đặt nhiệm vụ của mình lên đầu, đặt trên và trước chính cả cuộc
sống anh ta. "Một người đàn ông phải làm, những gì một
người đàn ông cần phải làm."
4:33
A wife, or mother, will try to stop a man, from doing what he has to do, using
her husband’s, or son’s, love for her, as a lever, to try to stop him from
doing anything, that may endanger his life, or her selfish material comfort and
happiness.
4:33 Người vợ, hay người mẹ, sẽ
cố ngăn người đàn ông, làm những gì anh ta phải làm, bằng cách sử dụng tình yêu của chồng, hoặc con trai, dành cho cô, như là phương tiện, để cố ngăn anh ta làm điều gì, có thể gây nguy
hiểm cho cuộc sống của anh,
hoặc tiện nghi vật chất và hạnh phúc ích kỷ của cô.
4:34
It would have been, and was, the same for Jesus, and his mission was so
difficult, that he could not allow a woman to get in the way, of his being
crucified.
4:34 Nó đã có thể trở nên, và là, như vậy với Chúa Giêsu,
và nhiệm vụ của Chúa là rất
khó, nên Chúa không thể cho
phép người phụ nữ nào có thể
ngăn cản, việc Chúa bị đóng
đinh.
4:35
Also, it would not have been fair, on any woman, so Jesus chose to be alone;
demonstrating total
unselfishness, in choosing to hurt himself, by being alone, rather than hurting
someone else, who
loved him (self-crucifixion). Therefore, during his mission, Jesus separated
himself, from the female members of his family, as much as was possible.
4:35 Ngoài ra, sẽ không được công bằng, cho
bất kỳ người phụ nữ nào, do đó, Chúa Giêsu đã chọn cách độc
thân, chứng thực thể hiện sự không ích kỷ, khi chọn
làm tổn thương chính mình, một mình Chúa, hơn là làm ai khác
(thương Chúa) đau khổ (tự đóng đinh
trên thập giá). Bởi vậy, trong
suốt thời gian công vụ, Chúa Giêsu
tách mình, khỏi các thành
viên nữ trong gia đình Chúa, một cách tối đa.
4:36
God has always used man to do His work, and to be His messengers (Prophets),
and all of Jesus’
disciples were men. God created man, NOT
woman, in His own image. Why?
4:36 Thiên Chúa luôn dùng đàn ông để thực
hiện công việc Ngài, và làm các sứ giả cho Ngài (các
nhà Tiên tri), và tất cả các môn đệ của Chúa
Giêsu đều là đàn ông. Thiên Chúa tạo ra đàn ông, KHÔNG phải phụ nữ, trong
hình ảnh chính Ngài. Tại sao?
4:37
Satan has always used woman to do his work, starting with Eve, trying to stop
God’s plans, by trying to persuade man not to do what is right, by using man’s
love for woman, against man (1st. Timothy 2:14).
4:37 Satan luôn
sử dụng phụ nữ để làm việc cho hắn, bắt đầu với Eve, cố ngăn các kế hoạch của Thiên Chúa, bằng cách cố thuyết phục đàn ông đừng làm những gì đúng, dùng tình yêu đàn ông dành cho mình (phụ
nữ), chống lại đàn ông (1 Ti-mô-thê 2: 14).
4:38 Man was told, by God, from the beginning (Genesis 3:16-17), that woman was NOT and could NEVER be his equal, and God has reminded man repeatedly, ever since (1st. Corinthians 11:1- 16)(Sura 2:228 & 4:34).
4:38 Đàn ông đã được Thiên Chúa dạy, từ buổi
ban đầu (Sáng thế ký 3:16-17), rằng
phụ nữ thì KHÔNG và KHÔNG THỂ ngang bằng họ, và Thiên Chúa đã nhắc nhở đàn ông nhiều lần, cho đến giờ (1 Cô-rinh-tô 11:1-16)
(Sura 2:228 & 4:34).
4:39
That is why man has kept woman down, and in her correct place, for all these thousands of years
(Job 2:9-10).
4:39 Đó là lý do tại sao đàn ông đã giữ phụ nữ
dưới họ, và ở đúng vị trí của cô ta, qua cả hàng ngàn năm (Gióp 2:9-10).
4:40
Having failed the first, very simple test, Adam and Eve were expelled from the
security of the Garden of Eden.
4:40 Bởi rớt bài kiểm tra đầu, một bài kiểm tra hết sức đơn giản, Adam và Eve bị đuổi khỏi Vườn Eden (mất sự chu cấp).
4:41
If they had obeyed God, and not Satan, and had passed the test, there would be
no problems in the world today. Without knowledge there would be no
nuclear-weapons; pollution; or hunger; etc.; etc.
4:41 Nếu họ vâng lời Thiên Chúa, thay vì Satan, và vượt qua bài kiểm tra, sẽ không có vấn đề gì trên thế giới hôm nay. Nếu
không có kiến thức sẽ không có các loại vũ khí hạt nhân, ô nhiễm, hay đói khổ vv.
4:42
Woman was punished, not only for failing her own test, but for then causing
Adam to fail his. This punishment took the form of having to suffer great pain,
in childbirth, because she had used her sex to persuade Adam (MAN) to disobey
God, and Eve (WOMAN) has been doing it all day; every day; everywhere; to
everyone; ever since.
4:42 Phụ nữ bị trừng phạt, không chỉ vì rớt bài kiểm tra của
chính cô, nhưng còn vì làm cho Adam rớt theo. Hình phạt này được đặt ở việc cô phải chịu đau đớn ghê gớm, khi lâm bồn, bởi cô đã dùng sự hấp dẫn giới tính của
mình để thuyết phục Adam (ĐÀN ÔNG) làm trái lời Thiên Chúa, và Eve (PHỤ NỮ) đã tiếp tục làm vậy cả ngày, mỗi ngày, ở mọi nơi, với mọi
người, từ đó đến giờ.
4:43
Sex leads to childbirth and great pain, which should also act as a deterrent to
sex, to try to teach women to look for love, instead of sex, i.e. God, instead
of the devil.
4:43 Sex dẫn tới việc sanh đẻ và đau đớn, mà đúng ra phải trở
thành một sự can ngăn sex, để cố dạy phụ nữ tìm kiếm tình yêu, thay vì sex, nghĩa là tìm kiếm Thiên Chúa, thay vì Satan.
4:44
After the expulsion from Eden, the devil used women; as he has continued to do
successfully, throughout the history of the world; to create problems, or
aggravate existing ones.
4:44 Sau việc bị trục xuất khỏi Eden, Satan sử dụng
phụ nữ, như cách hắn vẫn
thành công, trong suốt lịch sử của thế giới, để tạo ra nhiều vấn đề, hoặc làm trầm trọng hơn những cái đã có.
4:45 The population gradually increased and more souls were sent, from the Astral Plain, to use the new bodies, and, because people listened to Satan, instead of listening to God, the world became more and more evil.
4:45 Dân số tăng dần và có nhiều
linh hồn được gửi tới, từ Cõi
Trung Giới, để sử dụng các cơ thể người mới, và, bởi mọi người nghe theo Satan, thay vì nghe Thiên Chúa, thế giới ngày
một thêm nhiều và nhiều tội lỗi hơn.
4:46
Eventually, it became TOO evil, and God had to decide what to do, to try to put
everyone back on the right path.
4:46 Cuối cùng, nó đã trở nên QUÁ tội lỗi, và Thiên Chúa đã phải ra quyết định, để cố đưa mọi người trở lại con đường ngay.
The simple story of Adam’s sons,
Cain and Abel, seems also never to have been understood.
God told Cain and Abel, after
their parents had already been
disobedient, that the ONLY offering He would accept from them, was a LAMB (foreshadowing the LAMB of God - CHRIST and his “SELF”-crucifixion).
Câu chuyện đơn giản về các con trai của Adam/A-đam, Cain/Ca-in và Abel/A-bên, dường như
cũng không bao giờ được hiểu.
Thiên Chúa nói với Cain/Ca-in và Abel/A-bên, sau khi cha mẹ họ đã không vâng lời, rằng lễ vật DUY NHẤT Ngài sẽ chấp nhận từ họ, là một CON CHIÊN (là điềm báo của CON CHIÊN của Thiên Chúa – CHÚA và sự đóng đinh “BẢN NGÔ của mình)
Thiên Chúa nói với Cain/Ca-in và Abel/A-bên, sau khi cha mẹ họ đã không vâng lời, rằng lễ vật DUY NHẤT Ngài sẽ chấp nhận từ họ, là một CON CHIÊN (là điềm báo của CON CHIÊN của Thiên Chúa – CHÚA và sự đóng đinh “BẢN NGÔ của mình)
Abel obeyed God
and brought a lamb, EXACTLY
as he was told to
do, and was
ACCEPTED.
Abel/A-bên vâng lời Thiên Chúa và mang đến một con chiên, ĐÚNG như anh được dặn phải làm, và được CHẤP NHẬN.
Cain, just like his parents,
disobeyed God and he brought the fruit of the earth, and was REJECTED.
Cain/Ca-in, giống như cha mẹ anh, không vâng lời Thiên Chúa và anh mang đến trái cây của đất, và bị TỪ CHỐI.
In other words, unless you approach God, EXACTLY as He has told you to do (I am The Way, no man comes to the Father,
except by me - the Lamb of God - John 14:6), and NOT as your parents and siblings
have done, YOU will be REJECTED.
Nói cách khác, trừ khi con đến với Thiên Chúa, ĐÚNG như cách Ngài dặn con làm (Ta là Đường Về, không
ai đến được với Cha, trừ khi
bởi Ta – Con Chiên Thiên Chúa – Gioan/Giăng 14:6), và KHÔNG như cách cha mẹ, anh chị em của con đã làm, CON sẽ bị TỪ CHỐI.
ARMAGEDDON SURVIVAL-PLAN - KEY. For Printed-Version please
contact JAH@JAHTruth.net.
CHÌA KHÓA – KẾ HOẠCH SINH TỒN ARMAGEDDON. Liên hệ JAH@JAHTruth.net nếu cần bản in (tiếng Anh)
People say that there are many paths to God, and
there are thousands of different religious doctrines, ALL claiming theirs is the right and
only one, but there are thousands of them. God says there is only ONE way (John 14:6), and
that very few there be that find
it (Matt. 7:14).
Jesus has told you,
in Rev. 12:9, that Satan has deceived the whole world (ALL of YOU), because you are ALL trying to approach
God your OWN way, like Cain did,
and have been REJECTED (“Go away from me,
you who work iniquity - inequity, I do not know you” - Matt. 7:23 & 25:11,
12, 41; “Why call ye me Lord, Lord and do NOT do the things that I say?” - Matt. 7:21
& 25:11 & Luke 6:46 & 13:25).
Người ta nói rằng có nhiều đường để đến với Thiên Chúa, và có hàng ngàn học thuyết tôn giáo khác nhau, TẤT THẢY tự nhận cách
của họ là đúng và là
cách duy nhất, nhưng có hàng ngàn cách như vậy (học thuyết
tôn giáo). Thiên Chúa nói chỉ
có MỘT cách duy nhất (Gioan/Giăng 14:6), và rằng rất ít kẻ tìm được (Mátthêu/Ma-thi-ơ 7:14).
Chúa Giêsu đã nói với con, trong Khải-huyền 12:9, rằng Satan đã lừa dối cả thế giới (TẤT CẢ CÁC CON) bởi vì các con TẤT THẢY đang cố tiếp cận Thiên Chúa theo cách của RIÊNG mình, như Ca-in đã làm, và đã bị TỪ CHỐI ("Hãy lui ra khỏi Ta, các ngươi những kẻ làm chuyện tội lỗi – những điều bất công, ta chẳng biết các ngươi" – Mátthêu/Ma-thi-ơ 7:23 & 25:11, 12, 41;. "Tại sao các ngươi gọi Ta Chúa, Chúa và KHÔNG làm những điều Ta dạy". Mátthêu/Ma-thi-ơ 7:21 & 25:11 & Luca 6:46 & 13:25).
Chúa Giêsu đã nói với con, trong Khải-huyền 12:9, rằng Satan đã lừa dối cả thế giới (TẤT CẢ CÁC CON) bởi vì các con TẤT THẢY đang cố tiếp cận Thiên Chúa theo cách của RIÊNG mình, như Ca-in đã làm, và đã bị TỪ CHỐI ("Hãy lui ra khỏi Ta, các ngươi những kẻ làm chuyện tội lỗi – những điều bất công, ta chẳng biết các ngươi" – Mátthêu/Ma-thi-ơ 7:23 & 25:11, 12, 41;. "Tại sao các ngươi gọi Ta Chúa, Chúa và KHÔNG làm những điều Ta dạy". Mátthêu/Ma-thi-ơ 7:21 & 25:11 & Luca 6:46 & 13:25).
The people who say
that there are many paths to God, (and/or that theirs is the right one) are ALL calling God a LIAR, (Rev. 12:9 &
Matt. 7:15) so you know what is going to happen to them (Woe unto those who
call good [truth], evil [lies]) - “The FIRE” (Isaiah
5:20)(Matt. 25:41).
Những kẻ nói rằng có nhiều đường đến với Thiên Chúa, (và/hoặc rằng
cách của họ là cách đúng) TẤT THẢY đang gọi Thiên Chúa là một KẺ NÓI DỐI, (Khải-huyền 12:9 & Mátthêu/Ma-thi-ơ 7:15) để cho con biết những gì sẽ xảy ra cho bọn họ (Khốn khổ cho những ai gọi tốt [sự thật],là xấu [dối trá]) - "LỬA TRỜI" (Isaia/Ê-sai 5:20) (Mátthêu/Ma-thi-ơ 25:41).
God told Abel and
Cain the ONLY way and unless you do it EXACTLY, in minute and exact detail, The Way God has
told you, you will be rejected, just like clever, disobedient Cain was.
Abel in humble, loving trust and obedience brought his lamb.
Thiên Chúa nói với Abel/A-bên và Cain/Ca-in cách DUY
NHẤT và trừ khi con làm ĐÚNG như vậy, từng phút và chính xác từng chi tiết, Phương cách/Đường Về Thiên Chúa đã nói với con, con sẽ bị từ chối, giống như kẻ thông minh, không vâng lời Cain/Ca-in đã bị từ chối.
Abel/A-bên trong tính khiêm nhường, sự tin yêu và vâng lời đã mang con chiên của mình tới.
Abel/A-bên trong tính khiêm nhường, sự tin yêu và vâng lời đã mang con chiên của mình tới.
Cain in arrogant
disobedience; thinking he knew best and could
do as he liked; was rejected, even though he brought more than Abel did.
Cain trong sự kiêu ngạo bất tuân; nghĩ rằng anh biết hết và có thể
làm như anh thích; đã bị từ chối, mặc cho anh đã mang nhiều lễ vật hơn
so với Abel/A-bên.
Remember, they were,
like you are, condemned-prisoners
and had already been
kicked-out of the Garden of Eden, for disobedience, and unless you do EXACTLY as you are told, and learn
to be good, you are going to be EXECUTED.
Hãy nhớ rằng, họ, giống như con, là những kẻ bị kết án tù tội và đã bị
đuổi khỏi Vườn Địa Đàng, vì sự
không vâng lời, và trừ khi con làm ĐÚNG như con được dặn, và học cho nên thành, con đang
sắp bị XỬ TỘI CHẾT.
The word Abel means
“the breath of LIFE”, and the word Cain
means “possessions”, in Hebrew.
Từ Abel/A-bên có nghĩa là " Sanh khí CUỘC
SỐNG", và từ Cain/Ca-in có nghĩa là "của cải tài sản", trong tiếng Do Thái.
Cain slew Abel - in
English, “Possessions slew the breath of LIFE”.
Cain/Ca-in giết chết Abel/A-bên – dịch sang tiếng con đang đọc, "Của cải tài sản tước đi sanh khí CUỘC SỐNG".
Jesus said (Matt.
6:24), “You can NOT serve God and mammon
- money; materialism and possessions -
because if you love one, you will hate the other”.
In other words,
materialism and selfishness destroy good and spirituality (LIFE), and bring
spiritual death - “The FIRE”.
Chúa Giêsu đã nói (Mátthêu/Ma-thi-ơ 6:24), "Con KHÔNG thể làm tôi/phụng sự Thiên Chúa và mamôn- tiền
bạc, vật chất và của cải tài
sản - bởi vì nếu con yêu thích
điều này, con sẽ ghét điều kia".
Nói cách khác, của cải vật chất và sự ích kỷ phá hủy sự tốt đẹp và tinh thần (SỰ SỐNG), và mang lại cái chết cho linh hồn - "LỬA TRỜI".
Nói cách khác, của cải vật chất và sự ích kỷ phá hủy sự tốt đẹp và tinh thần (SỰ SỐNG), và mang lại cái chết cho linh hồn - "LỬA TRỜI".
---------------------------------
Human society can NEVER work, because it is based on
human selfishness (a kingdom or house divided can never stand –
Democracy, Politics, Parliament, families and society - Matt. 12:25).
If you have 100 people and you are one of them, and every one
is out for their “Self”, you
can have nothing but violence
and war, with the strong victimising and oppressing the weak; the rich doing
the same to the poor, and the clever doing likewise to the not so clever.
Xã hội của loài người KHÔNG BAO GIỜ có thể vận hành tốt được (dịch ý), bởi vì nó được dựa trên sự ích kỷ
của con người (một vương quốc hay gia đình chia rẽ thì không thể đứng vững - Dân chủ, Chính trị, Nghị viện Anh, các
gia đình và xã hội.
Mátthêu/Ma-thi-ơ 12:25).
Nếu con có 100 người và con là một trong số đó, và mỗi một thành viên làm việc vì "cái Tôi" của họ, con chẳng thể có gì, ngoài bạo lực và chiến tranh, với việc kẻ mạnh hiếp đáp và đàn áp kẻ yếu, kẻ giàu cũng làm như vậy với kẻ nghèo, và kẻ thông minh cũng làm tương tự vậy với kẻ không quá thông minh.
If, however, you have the same 100 people and you are one of them, and EVERY single one of them puts everybody else first, and his or her “Self” second, then, every single person, including you, gains 99 times.
Nếu con có 100 người và con là một trong số đó, và mỗi một thành viên làm việc vì "cái Tôi" của họ, con chẳng thể có gì, ngoài bạo lực và chiến tranh, với việc kẻ mạnh hiếp đáp và đàn áp kẻ yếu, kẻ giàu cũng làm như vậy với kẻ nghèo, và kẻ thông minh cũng làm tương tự vậy với kẻ không quá thông minh.
If, however, you have the same 100 people and you are one of them, and EVERY single one of them puts everybody else first, and his or her “Self” second, then, every single person, including you, gains 99 times.
Tuy nhiên,
nếu cũng 100 người như vậy và con (cũng) là một thành viên, và MỖI một thành viên đặt những người khác lên trước, và đặt “cái Tôi” của mình sau, thì, tất cả mọi người, kể cả con, được lợi 99 lần.
It will ONLY work, if EVERY single person does it, otherwise, the one who
doesn’t, steals everything from the others
(sound familiar?). One bad apple ruins the whole barrel.
So far it has NEVER been realized by man, and there
has NEVER been peace on Earth.
Điều này CHỈ có thể thành công, nếu MỌI người cùng thực hiện, nếu
không, những người không làm, sẽ biễn thủ mọi thứ
của những người còn lại (nghe có quen không?). Một con sâu làm rầu nồi
canh (dịch ý).
Từ đó đến nay, điều này CHƯA BAO GIỜ được thực hiện/nhận ra bởi các con, và (vì thế) Trái Đất CHƯA BAO GIỜ có ngày bình yên.
Xem tiếp Chương 5
Từ đó đến nay, điều này CHƯA BAO GIỜ được thực hiện/nhận ra bởi các con, và (vì thế) Trái Đất CHƯA BAO GIỜ có ngày bình yên.
Xem tiếp Chương 5
Democracy (Nền dân
chủ)/Demon (Ác hiểm, quỷ) –crazy (mất trí), Politics
(Chính trị)/Poli (nhiều)-ticks (ký sinh trùng hút máu), Parliament (Nghị viện)/Parler
(nói)-mentir (nói dối)
Download the FREE PDF version at: http://thewayhomeorfacethefire.net/
All correspondence please to jah@gibraltar.gi
or to:-
JAH, JAH Publications, P. O. Box 2129, Canvey Island, SS8 9UF, England, U.K.
Any support or donations to assist in our on-going research and promotion of "The Long Awaited Truth of All Things on Planet Earth" would be very much appreciated.
Any support or donations to assist in our on-going research and promotion of "The Long Awaited Truth of All Things on Planet Earth" would be very much appreciated.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét