Thứ Năm, 25 tháng 10, 2012

CHƯƠNG 2 - (UPDATE) Trường Cải Tạo không song sắt. Trái Đất/Địa ngục.



CHAPTER 2
The Prison Reform School with no bars. Earth/Hell.
 CHƯƠNG 2
Trường Cải Tạo không song sắt. 
Trái Đất/Địa ngục.
Laws of Karma - cause and effect
Sowing and reaping
 --> Just desserts

“Honi soit qui mal y pense” - evil be to him who thinks it.

Luật Nhân Quả/Karma -  Nguyên nhân và kết quả
Gieo và Gặt
--> 
Nhận lấy cái đáng nhận

"Honi soit qui mal y pense" – Ác
tâm sinh ác báo

Do not judge, so that you will not be judged (Matt. 7:1-2 & Luke 6:37). If you judge anyone, by any judgement other than those that God gave to Moses, you will be judged in the same way, by God. Let him, who is not a sinner, throw the first stone. No-one threw a stone, because all human+beings are sinners (Matt. 7:11). Why?

Con chớ xét đoán ai, để khỏi bị xét đoán (Ma-thêu/Ma-thi-ơ 7:1-2 & Lu-ca 06:37). Nếu con xét đoán bất cứ ai, bằng bất cứ phán xét nào khác với những Phán Xét mà Thiên Chúa đã ban cho Moses/Mô-sê, con cũng sẽ bị phán xét như vậy, bởi Thiên Chúa. Hãy để cho ai, không phải là tội nhân + linh, được ném đá đầu tiên. Không ai ném một hòn đá nào, bởi vì tất cả nhân + linh đều có tội (Ma-thêu/Ma-thi-ơ 7:11). Tại sao?

2:1 After making a study of the situation, God and the elders (of the Morning Star) decided to create a reform-school, far enough away, where, for the chosen period, they could safely try to teach Lucifer and his angels to be good, whereupon they could come home (Deuteronomy 28:1)(Revelations 2:28)(Sura 29:6).

2:1 Sau khi xem xét sự việc, Thiên Chúa và các trưởng lão (của Ngôi Sao Mai/Sao Kim) đã quyết định tạo ra một trường cải tạo, ở đủ xa, nơi, trong một khoản thời gian cho phép, họ có thể an toàn cố cải tạo Lucifer và các thiên thần theo hắn cho trở nên tốt, lúc đó các thiên thần đó có thể quay về (Phục truyền Luật lệ ký/Đệ Nhị Luật 28:1)(Khải-huyền 2:28) (Sura 29:6).

2:2 The objective, was for each and every one of them to learn, individually, to be like God (Matt.5:48 & 19:17); which, later on in history; because people had lost their way and couldn’t find it again by themselves; had to be demonstrated by Jesus, whose teachings taught the ONLY way that you can be taught (I am The Way [home], the Truth and the Life; not one man can come to the Father [home], unless he is like me - John 14:6); i.e. unselfish; humble; kind; loving and considerate to everyone, including his enemies, and “willing” to sacrifice his own human-life, for the benefit of everyone.

2:2 Mục đích, là để mỗi một linh hồn đó được học, một cách riêng biệt, để trở nên được như Thiên Chúa (Ma-thêu/Ma-thi-ơ 5: 48 & 19:17); điều mà, càng về sau trong lịch sử, do các con đã quá lầm lốikhông thể tự thân học thành/tìm về; buộc phải được làm mẫu bởi Chúa Giêsu, giảng dạy của Chúa Giêsu là phương cách DUY NHẤTcác con có thể được dạy (Ta là Đường Đi [về nhà], Chân Lý(Sự Thật) và Sự Sống, không ai có thể đến với Cha/Thượng đế [nhà], trừ khi anh ta cũng giống [làm được] như taGioan/Giăng 14:6), tức là vị tha, khiêm tốn, tử tế, yêu thương và quan tâm đến tất cả, bao gồm cả kẻ địch của mình, và "sẵn sàng" hy sinh cuộc sống-thân xác chính anh, vì lợi ích chung.

2:3 This needs 100% faith in God’s promise that there is life after human death, and YOU to trust Him, enough to follow Jesus’ example, to earn YOUR right to regain YOUR divinity (immortality), and go home.

2:3 Việc này cần 100% đức tin vào lời hứa của Thiên Chúa rằng có sự sống sau cái chết của phần người, và CON cần tin cậy Ngài, đủ tin để theo gương Chúa Giêsu, xứng đáng dành được quyền CỦA MÌNH để nhận lại thần tính của CON (sự bất tử) và trở về nhà.

2:4 There would be no point, in learning to be good enough to go to heaven, if it was not where you came from originally, and your REAL home, would there???

2:4 Sẽ chẳng có lý do xác đáng nào, ở việc học thành để trở nên đủ tốt để lên thiên đàng, nếu đó không phải là nơi con ở lúc ban đầu, và là quê hương THẬT của con, phải vậy không?

2:5 Complete faith can only come from KNOWING God personally, which can only be achieved by learning to COMMUNICATE directly with Him, and by doing His Will (Hosea 6:6). God has NEVER wanted people to believe in Him, He has ALWAYS wanted you to get to KNOW Him (Jeremiah 9:24) (John 17:3).

2:5 Việc tin cậy hoàn toàn chỉ có thể đến từ việc tự con BIẾTThiên Chúa, và con chỉ có thể đạt được điều đó bằng cách học GIAO TIẾP trực tiếp với Ngài, và bằng cách thực hiện Thánh Ý của Ngài (Ô-sê 6:6). Thiên Chúa CHƯA bao giờ muốn mọi người tin vào Ngài, Ngài LUÔN muốn con được BIẾT Ngài (Giê-rê-mi 9:24)(Gioan/Giăng 17:3).
 
2:6 Planet Earth was chosen for the prison, because it was far enough away; being on the far side of the galaxy; had no “intelligent” life-forms, but was capable of supporting crude animal life-forms, and, in its own way, was a beautiful planet (Rev. 12:9, 12)(Sura 17:8 & 83:7).

2:6 Hành tinh này (Trái Đất) đã được lựa chọn làm nhà tù, bởi nó ở đủ xa, nằm về phía xa của thiên hà này, không có các sự sống "thông minh", nhưng đủ khả năng hỗ trợ đời sống động vật dưới hình thức thô, và theo cách riêng của nó, là một hành tinh xinh đẹp (Khải-huyền  12:9, 12)(Sura 17:8 & 83:7).

2:7 It was also planned, to create beautiful surroundings, which would have many lessons built into them, and was then constructed, with these factors in mind. Nature, both vegetal and animal, was to give clues to those who would look for them, “Seek and you will find” (John 8:32).

2:7 Nó cũng đã được tính trước, để tạo ra các môi trường đẹp bao quanh, mà ẩn chứa trong đó nhiều bài học đã được lồng ghép trước, và sau đó đã được dựng thành, với các yếu tố đã nêu. Thiên Nhiên, cả thực vật và động vật, được dùng làm các điểm cung cấp manh mối cho những ai tìm kiếm chúng, "Hãy tìm và con sẽ tìm thấy" (Gioan/Giăng 8:32).

2:8 The seasons of nature were intended to teach, that Spring, with its birth, both of vegetation and animals, which was followed by Summer, the time of growth; followed by Autumn, the time of maturing and consolidation; in turn followed by Winter, the time of withering and dying (snow coloured hair and wrinkles), was to be followed again by Spring, and re-birth. All of this was designed, to show you about human “re-incarnation”, or perpetual human “life after death”, until you either get it right; regain your divinity and go home; or run out of time, and are executed.

2:8 Các mùa tự nhiên được dự định dùng để dạy, rằng mùa Xuân, mang trong nó sự sinh nở, cả với thảm thực vật và động vật, mà được theo sau bởi mùa Hè,thời gian của sự phát triển, sau đó là mùa Thu, thời gian cho sự trưởng thành và hợp nhất, thứ tự sau đó là mùa Đông, thời gian héo tàn và chết (tóc bạc như tuyết những nếp nhăn), và lại một lần nữa được tiếp nối bởi mùa Xuân và sự tái sinh. Tất cả những điều này được thiết kế, để chỉ cho con về sự luân hồi của con người, hay tính liên tục của cuộc sống con người "cuộc sống sau khi chết", cho đến khi con hoặc là ngộ ra; lấy lại được thần tính của mình trở về, hoặc hết thời gian, và bị xử chết.

2:9 Animal-life would teach; male-superiority, as the provider and protector; the caring for and rearing of the young; the showing of love and affection; the code of conduct and respect for parents. Then, in old age, the roles are reversed, and the children take care of their parents; teaching humility to both; the aged because of frailty and dependence; the young because, by looking at their parents, they can see what the future holds for them.

2:9 Cuộc sống động vật sẽ dạy; về tính vượt trội (đứng trên) của phái mạnh (giống đực), như nguồn cung cấp và bảo vệ; về sự chăm sóc và nuôi dưỡng con trẻ; cách thể hiện tình yêu và tình cảm; quy tắc ứng xử và sự kính trọng đối với cha mẹ. Và rồi, với thời gian, những vai trò đó được đảo ngược,và các con cái chăm lo cho cha mẹ chúng; để dạy sự khiêm nhường cho cả hai; người già vì sự yếu đuối và lệ thuộc; người trẻ, bằng cách nhìn vào cha mẹ họ, có thể thấy được tương lai của họ.

2:10 Nature teaches self-perfection (to teach the soul to perfect itself), weeding-out the freaks and the weak and imperfections; only the healthy surviving; with natural-selection of the most perfect specimens, as partners, to keep the breed healthy, so that it will survive.

2:10 Tự nhiên dạy cách tự hoàn thiện bản thân (để dạy cho linh hồn phải hoàn thiện bản thân nó), loại bỏ những quái thai và các sinh vật yếukhuyết tật; chỉ những sinh vật khỏe mạnh mới tiếp tục sinh tồn; với việc chọn lọc tự nhiên chọn ra các sinh vật tốt nhất, và kết hợp chúng thành đôi, để giữ cho giống nòi được khỏe mạnh, để mà chúng sẽ sinh tồn.

2:11 The natural harmony and balance, between the two sides of nature, i.e. animal and vegetation, living together and helping each other to survive, to teach the living with nature, helping it and each other. One, being more dependent upon the other; i.e. animals have to live with nature to survive, and are therefore more dependent on nature, than nature is on animals, but both help each other to survive; to teach that animals depend on nature, and nature depends on animals and God. Therefore animals should protect and live with nature and God, to ensure their own survival.

2:11 Sự hài hòa tự nhiên và cân bằng đó, giữa hai phía, là động vật và thực vật, chung sống với nhau và giúp đỡ lẫn nhau để cùng tồn tại, dạy cách sống cùng thiên nhiên, giúp thiên nhiêngiúp đỡ lẫn nhau. Một bên, chịu phụ thuộc vào bên kia hơn, đó là động vật phải sống với thiên nhiên để sinh tồn, do vậy phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, hơn là thiên nhiên phụ thuộc động vật, nhưng cả hai cùng giúp nhau tồn tại; để dạy rằng động vật cần thiên nhiên, và thiên nhiên cần động vật và Thiên Chúa. Do đó mà động vật nên bảo vệ và chung sống cùng thiên nhiên và Thiên Chúa, để đảm bảo sự sinh tồn của chính chúng.

2:12 Nature was to supply the means for food, water and shelter, which make up three of the five basic necessities, or God given rights (human rights), the fourth, of equal importance, being freewill. Freewill (freedom) to decide, whether to continue to follow Satan, or to follow God’s guidance and learn to be good, without being forced, but instead, by loving encouragement, is of the UTMOST importance.

2:12 Thiên nhiên là nguồn cung cấp thực phẩm, nước uống và nơi , tạo nên ba trong số năm nhu cầu cơ bản, hay các quyền mà Thiên Chúa ban tặng (các quyền con người), quyền thứ tư, có tầm quan trọng ngang bằng, là quyền có ý chí tự do. Tự do ý chí (sự tự do) để quyết định, có hoặc không tiếp tục theo Satan, hay theo hoặc không theo hướng dẫn của Thiên Chúa học để nên thành, không bằng cách ép buộc, nhưng thay vào đó, bằng sự động viên yêu thương, là chuyện HẾT SỨC quan trọng.

2:13 This encouragement and teaching, from within (IN-TUITION), by the good voice, that everyone has, and by life; circumstances and surroundings; has to be accompanied by free-will to choose. If God forced everyone to do things, they would never learn, and He would have no way of knowing, whether they were being good, because they wanted to, or because He was forcing them.The fifth God given right is the right to self-defence, from evil.

2:13 Sự động viên và giảng dạy này, từ trong tâm (thông qua TRỰC QUAN/SỰ CHỈ DẪN TRONG TÂM IN-TUITION. [IN:trong/bên trong-TUITION/instruction: sự chỉ dẫn), bởi một giọng nói tốtmọi chúng ta đều có, và bởi cuộc sống; các hoàn cảnh sống và môi trường xung quanh; phải đi kèm với ý chí tự do để chọn lựa. Nếu Thiên Chúa ép buộc các con làm điều tốt, các con sẽ không thể học được, và Ngài sẽ không rõ, việc làm vậy, là do tự các con muốn, hay do Ngài đã ép các con. Quyền thứ năm Thiên Chúa ban tặng là quyền được tự vệ, khỏi cái ác/nguy hiểm.

2:14 There was also to be a perfect reward and punishment system, which was to be “almost” instantaneous (allowing time for repentance), and exactly just (Divine Justice from God Himself), so that, anyone seeking, could find perfect “Karmic law”, as the Eastern cultures now call it, and “Sowing and Reaping”, as the Western cultures call it; but both are only “Cause and Effect”, receiving their “Just-Desserts”.

2:14 Cũng cần có một hệ thống thưởng phạt công minh xác đáng, "gần như" là tức thời (cho phép thời gian để ăn năn), và cực kỳ công bằng (Sự Công Minh Hoàn Hảo từ Chính Thiên Chúa), để mà, cho bất cứ ai tìm kiếm, có thể thấy được luật “Nhân Quả” hoàn hảo, cách mà các nền văn hóa phương Đông bây giờ gọi nó, hay "Gieo và Gặt", là cách mà các nền văn hóa phương Tây bây giờ gọi nó; nhưng cả hai đều chỉ là "Nguyên Nhân và Kết Quả", nhận lấy cái mình đáng nhận.

2:15 At any given moment in time, a soul would need to be (and is) exactly where it has earned the right to be, by all its previous actions and thoughts, in eternal-time, and for the circumstances to change, to coincide with what was deserved. This would teach and encourage the good, and punish the evil, so that those who opened their spiritual-eyes and sought to, would be able to make sense of their lives: past; present and future. This would then encourage child-like (not childish) faith and trust, in God and doing His Will, leading to even more dependence and closeness to Him, and yet more faith, until they came to KNOW and love Him.

2:15 Tại bất kỳ thời điểm nào trong thời gian, một linh hồn cần phải được đặt (và ) chính xác vị trí mà linh hồn đó đã giành được quyền ở đó, dựa trên tất cả các hành động và suy nghĩ trước đây của nó, trong đời đời tồn tại, và để cho các hoàn cảnh được thay đổi, trùng khớp với những gì xứng đáng được nhận. Điều đó sẽ dạy và khuyến khích cái tốt, và trừng phạt cái xấu, để những ai sử dụng tâm nhãn quan mà định thần, có thể ngộ được/nhận ra ý nghĩa các kiếp luân hồi của họ, quá khứ, hiện tại và tương lai. Điều này sau đó sẽ khuyến khích sự tin tưởng và ủy thác ngây thơ, trong trắng chân thành như con trẻ (không phải dại dột, non nớt, thiếu chín chắn) vào Thiên Chúa và vào việc thực hiện Thánh Ý Ngài, dẫn đến ngày một nương tựa và gần gũi với Ngài hơn, và thêm niềm tin hơn nữa, cho đến khi họ thật sự BIẾT và yêu mến Ngài.

2:16 This is perfectly symbolized by the ancient Roman’s symbol of the mirror, for Venus, their goddess of love. The mirror reflects exactly what is shown to it, and so does God, the Ruler of Venus (Morning Star), in faith; good and evil.

2:16 Điều này được lột tả đầy đủ qua biểu ý trong hình tượng chiếc gương của người La Mã cổ cho sao Kim, thần tình yêu của họ. Chiếc gương phản ánh chính xác những gì soi vào nó, và Thiên Chúa, Đấng Trị Vì sao Kim (Ngôi Sao Mai), cũng làm vậy với niềm tin, thiện và ác

2:17 If a soul gives 5% faith to God, He repays it with 5%, and so on, up to 100% faith, receiving 100% repayment from God. This faith in the unseen and the magic, of having personal miracles, which were previously thought to be only coincidences, having the effect of an ADDICTIVE drug, that HEALS absolutely everything, with NO ill effects. The addiction increases the child-like faith, and the destruction of self-ishness, until 100% faith is achieved, along with a spiritual joy (lasting, unlike human fragile and therefore very temporary happiness) that no-one can take away from you (if you have it), and a “cup that runs over” (total fulfillment - no emptiness - so full of the healing “Light” and Love, that you cannot help but overflow towards others, wanting to share the experience with them, because it is so wonderful).

2:17 Nếu một linh hồn gửi gắm 5% niềm tin vào Thiên Chúa, Ngài đáp lại nó bằng 5%, và cũng như thế, cho đến 100%, để nhận lại 100% sự tin tưởng từ Thiên Chúa. Chính niềm tin vào điều vô hình và kỳ diệu, vào sự có được các phép màu dành cho cá nhân, mà trước đây được nghĩ chỉ là những sự trùng hợp ngẫu nhiên, hiệu quả như một loại thuốc GÂY NGHIỆN, CHỮA LÀNH hoàn toàn tất cả mọi thứ, KHÔNG chút tác dụng phụ. Sự say mê này làm tăng thêm niềm tin chân thành, và hủy diệt nhanh cái tôi ích kỷ, cho đến khi đạt đến 100% niềm tin, cùng với một niềm vui tinh thần (bền vững, không giống như sự mong manh của cảm xúc con người, và do vậy cảm giác hạnh phúc rất nhất thời) mà không ai có thể lấy đi khỏi con (nếu con có được nó), và một “chén tôi tràn đầy" (hoàn toàn trọn vẹn - không còn rỗng ruột - đầy sự chữa lành của “Ánh Sáng" và Tình Yêu, mà con không thể cưỡng lại, nhưng tràn qua mọi người, mong muốn được chia sẻ kinh nghiệm đó với họ, vì nó thật sự rất tuyệt vời).

2:18 God, being the answer to every question, and the cure for every ill, is the ONLY thing that every SOUL needs, because with God, a soul has EVERYTHING it NEEDS (God being the source and supply of “Light” and everything good - Matt. 6:33 & Luke 12:31). God is the best friend that any soul can ever have (for ever), and He is with you 24 hours a day, wherever you go.

2:18 Thiên Chúa (tình yêu, sự tốt lành, lẽ thật), bởi là lời giải đáp cho mọi câu hỏi, và là phương thuốc cho mọi bệnh tật, là thứ DUY NHẤTmọi LINH HỒN cần, vì với Thiên Chúa, linh hồn có TẤT CẢ MỌI THỨCẦN (Thiên Chúa là cội nguồn và nguồn cung cấp "Ánh Sáng" và mọi điều tốt đẹp - Ma-thêu/Ma-thi-ơ 6:33 & Lu-ca 12:31). Thiên Chúa là bạn tốt nhất bất kỳ linh hồn nào có thể có (mãi mãi), và Ngài ở với con 24 giờ một ngày, bất cứ nơi nào con đi.

2:19 No human friend can be with you 24 hours a day, every day, everywhere you go. Your human friends can not protect you from the Devil, and really, they are all bad, whereas God is good and the Ruler of the Universe, the most powerful “Force” in the whole of creation.
What an amazing friend to have!

2:19 Không người bạn nào có thể với con 24 giờ một ngày, mỗi ngày, mọi nơi con đi. Những người bạn của con không thể bảo vệ con khỏi Satan, và thực sự, họ đều xấu, trong khi Thiên Chúa thì tốt và là Đấng Trị Vì Vũ Trụ, là “Sức Mạnh” uy quyền nhất trong tạo hóa. 

Tuyệt vời không khi con có bạn như vậy!

2:20 There would also be higher and lower spiritual levels, like in human schools, which go from nursery to university (Mark 12:32-34), with A-Z classes, and all grades in between. What humans call intelligence and levels of intelligence, or awareness, are really spiritual levels.

2:20 Cũng sẽ có các thứ bậc tinh thần/tâm linh cao thấp khác nhau, như trong các trường học của con người, đi từ mẫu giáo đến đại học (Máccô/Mác 12:32-34), với các lớp từ A tới Z, và tất cả các loại/hạng/lớp trong chúng. Những gì con người gọi là trí thông minh và các mức độ thông minh, hay nhận thức, thực ra là các thứ bậc tâm linh (giác ngộ).

2:21 The upper levels were to help to teach the lower ones, by example and not words, whilst ALL levels are being taught by God (Head-teacher). All the students should be helping one another, and becoming less selfish (love your neighbour as much as yourself - Matt. 19:19), thereby earning more points and responsibilities, climbing higher up the spiritual ladder, until they become enough like God (like Jesus demonstrated), graduate and go home (John 8:32 / King of kings’ Bible, John 8:23).

2:21 Các thứ bậc cao ở đó để giúp dạy cho các thứ bậc thấp hơn, bằng hành động không phải lời suông, trong khi TẤT CẢ các thứ bậc được giảng dạy bởi Thiên Chúa (Giáo viên Trưởng). Tất cả các học sinh đáng ra nên giúp đỡ lẫn nhau, và trở nên ít ích kỷ hơn (thương láng giềng như thể thương thânMa-thêu/Ma-thi-ơ 19:19), qua đó nhận thêm nhiều điểm và trách nhiệm hơn, leo cao thêm trên bậc thang tâm linh, cho đến khi trở nên đủ giống Thiên Chúa (như những gì Chúa Giêsu đã thể hiện), tốt nghiệptrở về nhà (Gioan/Giăng 8:32 / King of kings’ Bible ", John 8:23).

2:22 To be able to operate the almost-instantaneous reward and punishment system; to enclose the prison and run it efficiently; God surrounded the Earth with an invisible protection, against escape (Gravity), and with spirit and therefore invisible (to the human-eye) guards/jailers (guardian angels), to ensure that no-one could ever escape (and no-one ever has). This force-field contains the Astral Plain (Paradise), which is full of light, “Beings of Light” and Justice.

2:22 Để có thể vận hành hệ thống thưởng phạt gần như-tức thời, đi kèm nhà tù và sử dụng nó sao cho hiệu quả; Thiên Chúa bao quanh Trái đất một lớp bảo vệ vô hình, chống trốn thoát (Trọng lực), và với thần linh do vậy vô hình (trong mắt người) các bảo vệ/cai ngục (các thần hộ mệnh), để đảm bảo rằng không ai từng có thể trốn được (và chưa từng có ai trốn được). Trường lực này bao gồm cả cõi Trung-Giới (nơi cực lạc), là nơi tràn ngập trong ánh sáng, "các cư dân Ánh Sáng" và Công Lý.

2:23 The guards, being invisible, would also help to persuade the evil “fallen angels” to have respect, child-like faith and trust in the Lord’s protection, from the equally invisible Devil, whilst being, themselves, unable to attack what they could not see or touch. Then, when, because of lack of faith in God’s protection, He allows evil and mishaps to occur in their lives (Honi soit qui mal y pense), they will suddenly feel afraid, need and ask for His help, and receive it, bringing ever-increasing faith, trust and nearness to God, for those who had opened their spiritual-eyes, and were seeking to make sense of their lives.

2:23 Các thần hộ mệnh/thần cai ngục/hộ thần, là vô hình, cũng giúp thuyết phục các ác thần tỏ lòng tôn trọng, niềm tin và ủy thác con trẻ vào sự bảo vệ của Thiên Chúa, khỏi đối lực vô hình ngang bằng là Satan/Devil (không phải ngang bằng với Thiên Chúa), trong khi, chính các ác thần/tù linh, cũng không thể tấn công những gì họ không thể nhìn thấy hay chạm vào (các thần hộ mệnh). Rồi thì, khi, bởi vì thiếu đức tin vào sự bảo vệ của Thiên Chúa, Ngài cho phép tai họabất hạnh xảy ra trong cuộc sống mọi người (nghĩ ác gặp ác), họ sẽ đột nhiên cảm thấy sợ, cần và cầu xin sự giúp đỡ cuả Ngài, và nhận được , mang lại niềm tin ngày một tăng, cả sự tin tưởng và gần gũi với Thiên Chúa, đối với những ai đã mở tâm nhãn quang, và đang tìm kiếm ý nghĩa các cuộc sống của họ.

2:24 For those who do not believe enough in, or seek God constantly, He sends calamities into their lives. How many people, who say they do not believe in God, when suddenly in fear for their lives, cry: “God please help me!!!”? If they talked to Him all the time, as they should, these calamities would not happen, because there would be no need for them, as God would not have to forcibly remind them to talk to Him.

2:24 Đối với những ai chưa đủ tin, hoặc chưa tìm kiếm Thiên Chúa hết lòng, Ngài gửi tai họa vào cuộc sống họ. Có bao nhiêu kẻ, những ai nói rằng họ không tin vào Thiên Chúa, khi đột nhiên trong trạng thái sợ hãi cho mạng sống họ, khóc xin: "Trời ơi giúp con!!!"? Nếu họ nói chuyện với Ngài mọi lúc mọi nơi, là điều họ nên làm, thì những tai họa kia đã không xảy đến, bởi vì chúng sẽ không còn cần thiết nữa, Thiên Chúa sẽ không còn buộc phải nhắc nhở họ nói chuyện với Ngài.

2:25 Once the crisis is over, most people do not even have the common decency, and good manners, to thank Him, for having helped them solve their problem (by telepathically telling them what to do to solve the problem, or by sending them exactly the right type and amount, of physical help they need, at exactly the right time), and they go off, blindly ignoring Him again, until the next calamity.

2:25 Một khi sóng yên bể lặng, hầu hết mọi người thậm chí không tỏ phép lịch sự thông thường, và thái độ đúng, để cảm ơn Ngài, vì đã giúp giải quyết các rắc rối của họ (bằng thần giao cách cảm nói với họ phải làm gì để giải quyết rắc rối, hoặc bằng cách gửi chính xác loại và lượng, sự giúp đỡ vật chất mà họ cần vào đúng thời điểm cần), và họ đi, mù quáng phớt lờ Ngài nữa, cho đến tai họa kế tiếp.

2:26 There are none so blind, as those who refuse to see. Open your spiritual-eyes, and see things as they REALLY are. Don’t believe your own human-eyes, because Satan uses them to deceive you, and lie to you. A blind-man sees with his spiritual-eyes only, that is why the blind were able to recognise Jesus, as written, in the New Testament.

2:26 Không ai đui , cho bằng những kẻ từ chối nhìn. Mở to tâm-nhãn quang của con, và nhìn mọi thứ CHO ĐÚNG với bản chất chúng. Đừng tin vào mắt trần của con, vì Satan sử dụng chúng để lừa con, và nói dối con. Người đàn ông mù chỉ có thể nhìn với tâm-nhãn quang, đó là lý do tại sao anh ta đã có thể nhận ra Chúa Giêsu, như đã được ghi chép, trong sách Tân Ước.

2:27 How much more fortunate, than the blind, are you who have not had the gift of sight removed, and yet you are more blind than they are. Their sight had been removed, so that they would learn to appreciate spiritual-values, instead of worldly, material-values, as they had done previously, which had earned them the punishment of being blind.

2:27 Con tốt số, hơn kẻ đui mù bao lần, khi không bị lấy đi món quà thị giác, nhưng con lại mù hơn họ. Thị giác của họ đã được gỡ bỏ, để dạy họ biết đề cao các giá trị tinh thần, thay vì các giá trị của thế gian, các giá trị vật chất, như họ đã từng làm trong tiền kiếp, nguyên nhân làm họ bị phạt phải đui mù.

2:28 Faith is the key that opens every door (knock with TRUE faith and it shall be opened unto you- Matt. 7:7-8), and without it, you will live in darkness and fear, until your execution on the Last-Day.

2:28 Niềm tin là chìa khóa dùng để mở mọi cánh cửa (gõ với niềm tin THẬT cửa sẽ được mở cho con- Mát-thêu/Ma-thi-ơ 7:7-8), và không có nó, con sẽ sống trong bóng tối và sợ hãi, cho tới giờ hành quyết của con vào Ngày-Cuối.

2:29 Once the preparations were completed, the prisoners were sent to the Earth (Isaiah 14:12)(Luke 10:18 & Rev.12:9)(Koran, Sura 17:8 & 83:7), for the pre-set period of time (Rev. 12:12), i.e. until the “Last-Day” - “Judgement-Day” - “Armageddon”, or release, if they learned to be good.

2:29 Một khi các công đoạn chuẩn bị được hoàn thành, các tù linh được gửi đến Trái đất (Isaiah/Ê-sai 14:12)(Luca 10:18 & Khải-huyền 12: 9)(Thánh Kinh Koran, Sura 17:8 & 83:7), trong một khoản thởi gian được định sẵn (Khải-huyền 12:12), tức là cho đến “Ngày-Cuối" - "Ngày Phán Xét" - "Ngày Tận Thế", hoặc được thả, nếu họ học được nên thành.

2:30 Lucifer and his angels (you) were locked-in, for a short time (in eternal-time)(Rev. 12:12)(Sura70:4).

2:30 Lucifer/Lu-xi-phơ và các thiên thần phe hắn (các con) đã bị nhốt lại trong một thời gian ngắn (trong thời gian vĩnh hằng)(Khải-huyền 12:12)(Sura70: 4).

2:31 A prison, just to restrain evil angels, would be a senseless waste of time, and, in order to operate as a reformatory, it would need to function like a school. God does not permit any unnecessary waste (as demonstrated by Jesus, after the feeding of the five thousand, when he told the disciples to collect up all the crumbs, so that there would be no waste - John 6:12), and so, out of love; wisdom; compassion and mercy, He decided to construct a reformatory, to teach His rebellious subjects or children, to be good, so that they could come home, as soon as possible.

2:31 Một nhà tù, chỉ để giam giữ các ác thần, sẽ là một sự lãng phí thời gian vô nghĩa, và, để có thể vận hành như một môi trường cải tạo, nó sẽ cần phải hoạt động như một trường học. Thiên Chúa không cho phép bất kỳ sự lãng phí không cần thiết nào (như đã được thể hiện bởi Chúa Giêsu, sau khi cho 5000 người ăn, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ thu gom tất cả các vụn bánh, vì như vậy sẽ không có sự lãng phí – Gioan/Giăng 6:12), và thế là, từ tình yêu; sự thông thái; lòng từ bi và khoan dung, Ngài đã quyết định xây dựng một môi trường cải tạo, để dạy các đối tượng nổi loạn/các con cái của Ngài, cho được tốt, để mà họ có thể trở về nhà, càng sớm càng tốt. 

2:32 However, He would have to be sure, that you have GENUINELY changed, and will not cause any more trouble, but live in love and harmony, with the other inhabitants of the Morning Star – good [G(o)od’s - God’s] angels. He also wants His guards to be able to come home too.

2:32 Tuy nhiên, Ngài sẽ phải chắc, rằng các con đã THỰC LÒNG thay đổi, và sẽ không gây ra rắc rối nào nữa, nhưng sẽ sống trong tình yêu và hòa thuận, với các cư dân khác của Ngôi Sao Mai – các thiên thần tốt của Thiên Chúa. Ngài còn muốn các hộ thần/thần cai ngục của Ngài cũng có thể trở về nhà.

2:33 All of this discord makes God very sad, and He looks over the world and weeps, because He wants everyone to be good, and come home, so that He can (metaphorically-speaking) “kill the fatted-calf, and have a celebration, for the return of all His prodigal sons”, just like the father in Luke 15:22-24 does. That is all that He has ever wanted of you.

2:33 Tất cả những sự bất hòa này làm cho Thiên Chúa rất buồn, và Ngài nhìn xuống thế gian và thổn thức, bởi Ngài muốn các con được nên thành, và trở về nhà, để Ngài có thể (cách nói ẩn dụ) "giết con bê mập, và tổ chức một tiệc mừng, cho sự trở về của tất cả những đứa con trai hoang đàng của Ngài ", giống những gì người cha trong Lu-ca 15:22-24 làm. Đó là tất cả những gì Ngài đã từng muốn ở các con.

2:34 In the parable of “the prodigal son”, the prodigal son who was dead and is alive again (Luke 15:24), represents YOU. The prodigal son who was dead (condemned to death for your crimes), and on returning in humility; disgrace and repentance to his father (God), to serve his father and do his will, has come alive again (been reprieved), was lost and is found. On being refound, the prodigal son finds, to his surprise, that he is accepted back, joyfully, by his father, as his child and not his servant, as he expected. He then realizes that he was very foolish to leave his father, and that his life will be much better, living and learning from his father, who is much wiser than himself.

2:34 Trong ngụ ngôn về "người con trai hoang đàng", người con trai hoang đàng đã chết đi và được sống trở lại (Lu-ca 15:24), tượng trưng cho CON. Người con trai hoang đàng mà đã chết đi (đã bị tội chết vì những tội lỗi con đã phạm), và khi trở về trong sự khiêm tốn; hổ thẹn và ăn năn với cha anh ta (Thiên Chúa), để được phụng sự cha mình và nghe lời cha, đã sống trở lại (đã được ân xá), như đã bị lạc và được tìm thấy. Khi được tìm thấy, người con trai hoang đàng nhận ra, trong sự ngạc nhiên của anh, rằng anh được chấp nhận trở lại, một cách hồ hởi, bởi cha mình, như là con cái và không phải là tôi tớ, như anh tự nghĩ. Anh sau đó nhận ra rằng mình thật ngốc khi bỏ đi, và rằng cuộc sống của anh sẽ tốt hơn nhiều, khi sống cùng và học từ cha của anh, người khôn ngoan hơn anh.

2:35 God is the owner of the vineyard (world), and He has sent His servants (Prophets) and His Son (CHRIST Jesus), and the husbandmen (you) have killed them, so He will have to punish the husbandmen (priests and people of this world)(Matt. 21:33-46), unless you repent.

2:35 Thiên Chúa là chủ của vườn nho (thế giới), và Ngài đã gửi các đầy tớ của Ngài (các nhà Tiên tri) và Con Ngài (CHÚA Giêsu), và bọn trồng nho (các con) đã giết họ, do đó Ngài sẽ phải trừng phạt các con (các linh mục/cha đạo/... và những người của thế giới này) (Mát-thêu/Ma-thi-ơ 21:33-46), trừ khi các con ăn năn.

2:36 To function as a reformatory, everything would have to (and does) fall into one of four categories:-

2:36 Để hoạt động như một môi trường cải tạo, mọi thứ sẽ phải (và được) rơi vào một trong bốn mục sau:-

1.      TEACHING from God and “hopefully” LEARNING by you. If not the lesson must be repeated, over and over again, until it IS learned, with punishment each time that a test is failed (“when will I ever learn?”).

  SỰ GIẢNG DẠY  từ Thiên Chúa và "hy vọng" VIỆC HỌC TẬP từ các con. Nếu không bài học cần phải được lặp lại, lặp đi lặp lại, cho tới khi con học được, với hình phạt mỗi lần con rớt ("Cho tới khi nào tôi mới học được đây?").

2.      TESTS to see what; how much; how well; or even if the lessons have been learned at all. The tests are set in such a way that they show God the results, to the exact degree. God “uses” the Devil for these tests, by letting him tempt you, and then He tells you not to do what Satan says, in a spiritual “tug of war”, to see which way you voluntarily decide to go. (This is the reason for needing free-will). “These things are sent to try us.” (Job 1:12 & 2:6-7).

  CÁC BÀI KIỂM TRA để xem các con học gì; nhiều ít; tốt như thế nào; hay thậm chí có học được không. Các bài kiểm tra đó được thiết lập bằng một phương cách nào đó để Thiên Chúa thấy các kết quả, đến chính xác ở mọi góc độ. Thiên Chúa "sử dụng" Satan trong những bài kiểm tra này, bằng cách cho phép hắn cám dỗ các con, và sau đó Ngài nói với các con không làm những gì Satan nói, trong một “cuộc chiến giằng co" tinh thần, để xem các con tự nguyện chọn nghe ai. (Đây là lý do vì sao cần quyền tự do ý chí). "Những điều này được gửi đến để thử chúng ta." (Gióp 1:12 & 2:6-7).

3.     REWARDS for learning well and doing good deeds, taking the form of true SPIRITUAL happiness (joy) and earned enlightenment.

CÁC KHEN THƯỞNG cho kết quả học tập tốtnhững việc làm tốt, dưới hình thức hạnh phúc TINH THẦN thật (niềm vui bền vững) nhận được sự giác ngộ.

4.    PUNISHMENT for not learning to be good and for continuing to follow the Devil, doing evil. Taking the form of various types and degrees of pain, both mental and physical, e.g. heart-ache; fear; illness or injury; etc.

HÌNH PHẠT vì không học tập để trở nên tốt và vì tiếp tục nghe theo Satan, làm việc xấu. Dưới hình thức của các dạng và các mức độ đau đớn, cả về tinh thần và thể chất, ví dụ như đau tim; sợ hãi; bệnh tật hoặc chấn thương; ...

2:37 EVERYTHING of any relevance, in everyone’s life, falls into one of these FOUR categories, YOU have to decide which one. A human school is based on these same principles, and is a school within a school, but, unfortunately, they teach worldly-values, instead of God’s values.

2:37 TẤT CẢ MỌI THỨ cần sự lưu tâm, trong cuộc sống của các con, rơi vào một trong BỐN mục trên, CON phải nhận định xem là mục nào. Trường học của con người được dựa trên những nguyên tắc tương tự, và là một trường học trong trường đời, nhưng thật không may, họ dạy những giá trị của thế gian, thay vì các giá trị của Thiên Chúa.

2:38 There is ABSOLUTELY no such thing as coincidence, everything is planned, down to the smallest detail, so that when things happen, you have to ask why, and the good telepathic voice within you will tell you why. Then, those who seek, will be able to make sense of their lives, and follow the right path. Similarly, there is no such thing as luck.

2:38 TUYỆT ĐỐI không có điều gì là sự trùng hợp ngẫu nhiên, tất cả mọi thứ đều được tính trước, tới từng chi tiết nhỏ nhất, để đến khi các sự việc xảy ra, con phải hỏi tại sao, và giọng nói thần giao cách cảm tốt bên trong con sẽ chỉ cho con biết lý do tại sao. Như thế, những ai tìm kiếm, sẽ có thể ngộ ra ý nghĩa các cuộc sống của họ, và lần theo con đường ngay. Tương tự như vậy, không có gì gọi là may mắn.

2:39 You must look for God, or good, and His working, in everyone; everything; every circumstance, and encourage good in yourself, and everyone around you.

2:39 Con cần phải tìm kiếm Thiên Chúa, hay sự tốt đẹp, và những gì Ngài làm, trong mọi người, trong mọi thứ, trong mọi hoàn cảnh, và khuyến khích điều ngay trong chính mình, và trong mọi người xung quanh con.

2:40 See God in the smile and trust of a child, or a loved-one; in His love in giving you loving animals, as “faithful” friends to play with, and in the beauty of nature and harmonious surroundings.

2:40 Thấy Thiên Chúa trong nụ cười và sự tin tưởng của một đứa trẻ, hay của một người thân; trong tình yêu của Ngài khi ban cho con những vật nuôi đáng yêu, như bạn bè "trung thành" cho con vui đùa, và trong vẻ đẹp của thiên nhiên và các môi trường hài hòa chung quanh.

2:41 Get to KNOW God and what IS good, and FEEL His love! (Hosea 6:6).

2:41 Nhận BIẾT Thiên Chúa và những gì tốt đẹp, và CẢM NHẬN tình yêu của Ngài! (Hôsê/Ô-sê 6:6).

2:42 Judge no-one! Who does man think he is, that he thinks he has the right to judge another, when he himself is bad and a fellow prisoner?

2:42 Không xét đoán ai! Con người nghĩ mình là ai, rằng anh ta có quyền xét đoán người khác, khi chính anh cũng xấulà tù nhân như ai?

2:43 ONLY God can judge, because only God knows what is good, and can therefore judge justly. Men are only relatively good or bad, one to another, likewise their judgement, because there is noone good, here in prison. All the good souls have gone home to heaven. It was false judgement, that sent Jesus the Nazarite (see Numbers ch.6), to the cross.

2:43 CHỈ Thiên Chúa mới có thể phán xét, bởi vì chỉ có Thiên Chúa biết điều gì là tốt, và do đó mới có thể đánh giá một cách công bằng. Các con chỉ là tương đối tốt hoặc xấu, người này đến người kia, cũng như phán xét của các con, bởi vì có ai tốt đâu, trong tù này. Tất cả các linh hồn tốt đã trở về nhà trên thiên đàng. Chính bởi phán quyết sai lầm, Chúa Giêsu Nazarite (xem Dân Số/ Dân Số Ký ch.6), đã bị đóng đinh trên thập tự giá.

2:44 If everyone kept and enforced GOD’S Laws and JUDGEMENTS, there would be no problems. However, man has; from arrogance, which got him sent here in the first-place; made up his own laws. Man seems to think that he can rule this planet, better than God, and look what a mess the world is in, because of it.

2:44 Nếu các con biết giữ và biết thi hành các Luật Phápcác PHÁN XÉT của Thiên Chúa, đã không có vấn đề gì xảy ra. Tuy nhiên, con người (+linh hồn bị nhốt ở trong) đã; vì sự kiêu ngạo, lý do đầu trong việc anh ta (linh hồn) bị gởi đến nơi này; tự tạo ra các luật pháp của mình. Loài người dường như nghĩ rằng họ có thể cai trị hành tinh này, tốt hơn Thiên Chúa, và nhìn đi, thế giới trở nên một mớ hỗn độn, bởi vì đó.

2:45 “Your Will shall be done on Earth, as it is done in heaven.” IF everyone did God’s Will, as ALL the Prophets (God’s messengers) have advised, He could put the world right, very quickly, using people to do it, and make the world a better place for everyone to live in. Unfortunately, at the moment, almost everyone is doing Satan’s will, and, in so doing, is making the world a worse place in which to live.

2:45 "Thánh Ý của Cha sẽ được thực hiện trên Trái đất, như được thực hiện trên trời (thiên đàng)." NẾU tất cả các con biết thực hiện Thánh Ý Thiên Chúa, như những gì TẤT CẢ các nhà Tiên Tri (các sứ giả của Thiên Chúa) đã khuyên. Ngài đã có thể làm cho thế giới được đi đúng đường, rất nhanh chóng, bằng cách sử dụng các con để thực hiện điều đó, và làm cho thế giới này thành một nơi tốt đẹp hơn cho các con sống. Thật không may, tại thời điểm này, hầu như tất cả các con đang làm theo ý của Satan, và, trong khi làm vậy, đang làm cho thế giới bị biến thành một nơi thật tồi tệ để sống.

2:46 You have made your bed; now you have to lie in it; or remake it. The world is your bed.

2:46 Các con đã tạo cho mình môi trường sống như vậy, bây giờ các con hoặc chịu nằm trong nó, hay là làm lại nó. Thế giới là nơi sống của các con.

2:47 When you are with people that you think are good, here on Earth, and you are having what you call a good time (which is usually actually a bad time), just remember that you are in hell, and with people who are actually bad. Then, just try to envision what it must be like, in heaven, where people are REALLY good and no-one murders, or steals, or tells lies, or rapes and everyone loves everyone, and you can TRUST everyone.
Wouldn’t you prefer to be there?

2:47 Khi các con giao du với những người mà con nghĩ là tốt, ở đây trên Trái Đất, và các con vui chơi, tiệc tùng, gọi đó là anh em họp mặt vui vẻ (thường thật chẳng có gì hay, và thật ra là xấu), con cần ghi nhớ rằng con đang ở trong địa ngục, và với những người thực xấu. Bây giờ, chỉ cần cố gắng hình dung những gì diễn ra, ở trên trời, nơi các linh hồn là THỰC SỰ tốt và không ai giết ai, hoặc đánh cắp, hoặc nói dối, hoặc hãm hiếp và tất cả mọi linh hồn yêu thương nhau, và con có thể TIN TƯỞNG tất cả họ.
Con không muốn ở một nơi như vậy à?

Xem tiếp Chương 3

Download the FREE PDF version at: http://thewayhomeorfacethefire.net/

All correspondence please to jah@gibraltar.gi or to:-
JAH, JAH Publications, P. O. Box 561, The Way Home - PMB 205, Gibraltar, (Via London).

Any support or donations to assist in our on-going research and promotion of "The Long Awaited Truth of All Things on Planet Earth" would be very much appreciated.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét