CHAPTER 1
CHƯƠNG 1
Before the Beginning
(of human-life on Earth).
Trước cả Sự Bắt Đầu
(của cuộc sống con người trên Trái đất).
1:1 Thousands of
Earth years ago, far away, in THIS galaxy, on the Morning Star (Rev.
2:28), the Lord Guardian Of Divinity, King (Malachi 1:14),
Ruler and Guardian of the Universe (Sura 23:86), put down a revolution led by
Lucifer (Iblis)(Rev. 12:7-9).
1:1 Hàng ngàn năm Trái đất trước, xa
thật xa, trong thiên hà NÀY, trên
Ngôi Sao Mai (Khải-huyền 2:28), Chúa
Thánh Linh Hộ Thần, Thượng Đế (Malakhi/Ma-la-chi 1:14), Đấng
Trị Vì Vũ Trụ (Sura 23:86) đã dập tắt một cuộc bạo loạn được khởi xướng
bởi Lucifer/Lu-xi-phơ (Iblis)(Khải-huyền 12:7-9).
1:2 The Morning Star (Venus)
is inhabited by immortal “Beings of Light” (Spirit/Energy), whose civilization, based
on “pure” love, is zillions of years old.
1:2 Ngôi
Sao Mai (Sao
Kim) là nơi sinh sống của các “linh dạng Ánh Sáng” bất tử (Linh
hồn/Năng lượng), nền văn minh của họ, nền tảng được xây dựng trên
tình yêu tinh thần "thanh khiết", tồn
tại từ rất lâu, không thể đếm tuổi.
1:3 Lucifer; now
known here on Earth as Satan (the Opposer) the Devil (the Liar/Slanderer)(RED
dragon/serpent - Rev. 12:3, 9) from which the word D/evil is derived; because of
his selfish and arrogant nature, wanted to over-throw the Lord and to take His
place, so that he could rule, and inflict his own selfish opinion and evil
desires on the heavens. He encouraged and misled many of the other inhabitants
of the Morning Star; whom people on Earth know by the name Angels; to join him
and he then started a war, against God (Rev. 12:7 & Isaiah 14:13-14).
1:3 Lu-xi-phơ, bây giờ được biết đến trên Trái đất với tên gọi Satan (kẻ
Đối Nghịch) Ma
Quỷ (Tên
Dối Trá/Kẻ
Vu Khống)(rồng sắc ĐỎ/con rắn
xưa – Khải-huyền 12:3,9) là gốc
của từ ác/Quỷ, bởi bản chất ích kỷ và kiêu ngạo của bản thân, đã muốn lật
đổ Thượng Đế, và dành lấy vị trí của Ngài, để hắn có thể cai trị, và áp đặt ý riêng ích kỷ cùng những tham
vọng xấu của mình lên các tầng trời. Hắn đã
kích động và lừa dối nhiều cư dân Sao Mai, được
biết đến trên Trái đất với tên gọi các Thiên Thần, cùng
tham gia và sau đó hắn đã bắt đầu một cuộc
chiến, chống lại Thiên Chúa (Khải-huyền 12:7 &
Isaia/Ê-sai 14:13-14).
1:4 Angels do not
carry harps or have wings, they merely have a melodic sounding type of voice
and they can fly. The very simple mentality of the people of the early biblical
days; who had never seen anything on Earth flying, unless it had wings; led to
the myth about angels.
1:4 Các Thiên Thần không mang đàn hạc hay
có cánh, giọng nói các Thiên Thần đơn thuần tạo giai điệu và họ có thể bay. Do tâm trí chất phát của người ta thuở ban đầu, những người chưa bao giờ nhìn thấy bất cứ vật gì trên trái đất bay, trừ khi chúng có cánh, dẫn đến các truyền thuyết về thiên thần.
1:5 Lucifer did not
declare war and fight with honour, but sneaked around murdering and fought dishonourably (John
8:44 / King of kings’ Bible, John 8:35), as ALL terrorists do.
1:5 Lucifer đã
không tuyên chiến và chiến đấu trong danh dự, nhưng đã lén lút ám toán và sử dụng những phương thức hèn hạ (Gioan/Giăng
8:44 / King of kings’
Bible, John 8:35), như cách TẤT CẢ các kẻ khủng bố vẫn làm.
1:6 Prince Michael,
God’s eldest son; known by many names here on Earth, one of which is Jesus/Saviour,
Commander-in-Chief of the JEDI Knights, who have been the guardians of the heavens for zillions
of years; fought with his knights, using the “Light” and “The Force”, which is
the force of love. God, Who is pure love and the source and controller of His
“Force”; love, the greatest force in creation; defeated Lucifer and his
followers, some of whom were misled, by lies, into fighting against God.
1:6 Hoàng tử Michael
(Mai-cồ/Mi-xen), con trai trưởng của Thiên Chúa (được biết đến với nhiều tên gọi trên Trái đất, một trong số đó là Chúa
Giêsu/Chúa Cứu Thế), là
Đại tướng/Chỉ huy trưởng của các hiệp sỹ JEDI,
là các vị có nhiệm vụ bảo vệ cho các tầng trời tự thuở sơ khai, đã chiến đấu cùng
các hiệp sỹ của mình, sử dụng “Ánh Sáng” và “Thần Lực”, là thần lực của tình yêu. Thiên Chúa, Ngài là tình yêu thánh khiết và là cội
nguồn, là nguồn kiểm soát Thần Lực đó, tình yêu là nguồn sức mạnh vô thượng trong tạo
hóa, đã đánh bại Lucifer và đồng đảng hắn, trong đó một số đã bị lừa, bởi những
lời dối trá, vào cuộc chiến chống lại Thiên Chúa.
1:7 Unlike Lucifer,
who would have spared no-one, the Lord, in His infinite Wisdom and compassion, decided
to demonstrate His love and mercy, to His enemies. God; knowing that Lucifer
had invented lying (John 8:44 / King of kings’ Bible, John 8:35), and had
deceived many weakwilled angels into following him; decided not to execute them
immediately, but to give them a chance to learn the ERROR of their ways. If
they GENUINELY
repented,
within a pre-set period of time, He would spare them; if not, He would have no
alternative but to destroy them (Malachi 4:6)(John 3:17-18 & 5:24-25).
1:7 Không như Lucifer, là kẻ không tha một ai,
Thiên Chúa, trong
sự Thông Thái và từ bi vô hạn, đã quyết
định tỏ
rõ tình yêu và lòng khoan dung, đối với kẻ địch của Ngài; biết rằng Lucifer đã tạo nên việc nói dối (Gioan/Giăng 8:44 /King of kings’
Bible", John 8:35), và đã lừa dối nhiều thiên thần thiếu lập trường về phe hắn; nên Ngài quyết định không trừng phạt họ ngay lập tức,
mà cho họ một cơ hội để học và sửa SAI. Nếu họ THẬT LÒNG sám hối, trong một khoảng thời gian được định sẵn, Ngài sẽ dành cho họ con đường sống, nếu không,
Ngài buộc phải tiêu diệt họ vì không còn cách nào khác (Ma-la-chi 4:6) (Gioan/Giăng 3:17-18 & 5:24-25).
1:8 The Lord then had
to decide what to do with His prisoners, so that they could do no more harm,
and could be safely taught to be good. Being spirit/energy (Luke 9:55), they
could not be punished; only destroyed, using “Fire” (not earthly fire); because
they feel no PAIN and have no needs (Rev.7:16).
1:8 Thiên Chúa sau đó phải chọn
cách xử trí với các tù
linh của Ngài, sao cho họ không
thể gây hại nữa, và có thể được dạy dỗ
nên thành. Bởi là linh hồn/năng lượng (Luca 9:55),
họ không thể bị
phạt; chỉ có
thể bị tiêu diệt, sử dụng "Lửa Trời" (không
phải lửa trần); vì họ không có cảm giác ĐAU và không có nhu cầu gì
(Khải-huyền 7:16).
1:9 Not executing
Lucifer and his angels, outright, created quite a difficult situation.
1:9 Không hành hình Lucifer và các thiên thần
theo hắn, ngay lập tức, đã tạo nên một tình huống khó xử.
1:10 They had to be
taught to keep the twelve laws of heaven; THE TWELVE COMMANDMENTS
(see appendix);
ten of which were given to Moses on Mount Sinai (Exodus 20:1-17), and the
eleventh and twelfth, which were given later-on, by Jesus; one of which God
demonstrated and still demonstrates, i.e. “love your enemies into being good.”
He did this by giving you a chance, and the opportunity of learning to be good,
even though you had intended, and actually tried, to kill Him. This
demonstrates perfectly, God’s gentle use of
strength.
1:10 Họ cần được dạy cách giữ mười hai điều luật của thiên đàng; MƯỜI HAI ĐIỀU RĂN (xem phụ lục), mười trong số đó đã được trao cho Môsê trên núi Sinai (Xuất hành/Xuất Ê-dip-tô ký 20:1-17), điều mười một và mười hai, đã được dạy sau đó, bởi Chúa Giêsu; một trong hai điều đó Thiên Chúa đã thực tỏ và vẫn còn đang giảng giải và thể hiện, đó là "yêu thương kẻ thù của mình để họ cải tà qui chánh." Ngài đã làm vậy bằng cách cho con một cơ may, và một cơ hội để học điều ngay lẽ phải, ngay cả khi con đã từng lập mưu, và thực sự cố gắng, để ám hại Ngài. Điều này thể hiện hoàn hảo, sự nhơn từ của Thiên Chúa khi dụng sức.
1:11 Jesus gave the
new COMMANDMENT, “Love one another
as I have loved you,” to his disciples (John 13:34
& 15:12). He was telling them to love their enemies, and to teach them, by loving them, because
the disciples had originally been his enemies, in the war (Rev. 12:7), or they
would not have been here, in prison (Isaiah 14:12-15)(Luke 9:55 & Rev.
12:8)(Sura 17:8 & 83:7).
1:11 Chúa Giêsu ban điều RĂN mới, "Hãy yêu thương nhau
như Ta đã yêu các con", cho các môn đồ (Gioan/Giăng 13:34 & 15:12). Chúa Giêsu nói với họ
hãy yêu thương kẻ
thù, và Chúa dạy họ, bằng cách yêu thương họ, bởi
các môn đồ trước đây từng là kẻ địch của Chúa, trong cuộc
chiến (Khải-huyền 12:7), nếu không họ đã không ở đây, trong tù này (Ê-sai 14:12-15) (Lu-ca 9:55 & Khải-huyền 12:8) (Sura 17:8
& 83:7).
1:12 Loving your
enemies does NOT
mean
allowing them to do evil, or to get away with doing evil; or allowing them to
persuade YOU
to
do evil things; or to stop YOU from doing what God wants YOU to do. Just like when
Satan used Peter, to try to stop Jesus from doing God’s Will, and Jesus said to
Satan, who was speaking through Peter, “Get thee behind me Satan” (Matt.
16:23).
1:12 Yêu thương kẻ thù của con KHÔNG có nghĩa là để
mặc họ làm điều sai, hay làm
ngơ cho họ thoát tội; hoặc cho họ cơ
hội thuyết phục CON làm theo những điều
sai, hoặc để họ ngăn CON làm điều Thiên Chúa muốn CON làm. Cũng giống như khi Satan sử dụng Phi-e-rơ/Phêrô, để cố ngăn chặn Chúa Giêsu thực hiện Thánh Ý Thiên Chúa, và Chúa Giêsu nói với Satan, ai
đang nói qua Phêrô, "Satan, hãy lui ra" ( Ma-thêu/Ma-thi-ơ 16:23).
1:13 The twelfth COMMANDMENT, also given later,
by Jesus, is: “YOU
shall
NOT
judge.”
He who judges another, condemns himself (Matt. 7:1). This applies to ALL of you, especially in
your courts. God has given HIS Judgements and Laws, as well as THE COMMANDMENTS, and anyone else’s
judgements and laws are TOTALLY UNLAWFUL. IF everyone kept THE COMMANDMENTS there would be
absolutely no problems on Earth.
1:13 Điều RĂN thứ mười hai, được Chúa Giêsu truyền dạy: "CON KHÔNG được xét đoán." Ai xét
đoán kẻ khác, là tự mang tội vào thân (Ma-thêu/Ma-thi-ơ 7:1). Điều này
áp dụng cho TẤT CẢ các con, đặc biệt
trong các phiên tòa các con tự lập nên. Thiên Chúa đã ban
cho các
Phán Quyết và Luật Pháp của NGÀI,
cùng các ĐIỀU RĂN. Nghĩa là các
phán quyết và luật pháp khác con người tự lập TẤT CẢ đều BẤT HỢP PHÁP.
Nếu các con biết giữ các ĐIỀU RĂN thì đã hoàn toàn không có vấn đề gì
trên Trái Đất.
1:14 All the
prisoners were given suspended death-sentences, UNLESS they learned to be
good. Those death-sentences
still stand, and are only suspended until Judgement Day. YOU still are under the
shadow of the DEATH-SENTENCE
(Exodus
34:6-7)(John 3:17-18 & 5:24-25).
1:14 Tất cả các tù linh đều bị xử tội chết và đang chịu án treo, TRỪ KHI các con cải tà quy chánh. Tội chết của các con vẫn còn đó, và chỉ chờ Ngày Phán Xét. CÁC CON vẫn còn là những tử tội chờ bị hành hình. (Xuất hành/Xuất Ê-dip-tô ký 34:6-7) (Gioan/Giăng 3:17-18 & 5:24-25).
I have already
stated, in the introduction, that this Book is fact, NOT fiction. The
word JEDI
is
an abbreviation
for JEsus DIsciple.
Ta đã viết trong phần
giới thiệu, rằng Sách này gồm các sự kiện thật, KHÔNG phải hư cấu. JEDI từ là
chữ viết tắt của môn đệ Chúa Giêsu (JEsus DIsciple) .
Before any of
you start to fall into the trap, of mistakenly thinking that
this Book is a science-fiction novel; based
on “Star Wars”, by George Lucas, just because I have used the word JEDI; I am going
to explain to you, something that George Lucas does not know, yet.
Trước khi các con bắt
đầu, sai lầm nghĩ rằng Sách này là sách khoa học viễn tưởng, dựa trên
“Chiến Tranh giữa Các Vì Sao", của George Lucas, chỉ vì ta đã sử dụng từ
JEDI; ta sẽ giải thích cho con, điều mà George Lucas cũng chưa được
biết.
George Lucas,
quite naturally, believes that he wrote “Star Wars”, but, in reality, he was
told, telepathically,
what to write, in Episodes IV-VI inclusively, and then forced to make those
episodes first, by the very “Force” to which the “Star Wars” films refer, as a
very important step in the preparation of mankind, for the long awaited truth,
about the real
reasons
for human life on Earth (what on Earth am I doing here?); the meaning of life
and its purpose, contained in THIS Book. This
Book is science-fact. YODA is an
abbreviation and refers to a training-book.
George Lucas, hoàn
toàn tự nhiên, tin rằng ông đã viết "Chiến Tranh giữa Các Vì Sao",
nhưng thực ra ông đã được chỉ cho, bằng thần giao cách cảm, những gì cần viết,
trong các tập IV-VI, và sau đó được bảo phải làm những tập đó trước, bởi chính “Sức Mạnh” mà
các tập phim “Chiến Tranh giữa Các Vì Sao" nói tới, như là một bước đi rất quan
trọng trong việc chuẩn bị cho nhân loại, đón nhận sự thật được chờ đợi từ lâu,
về lý do thực sự của cuộc sống con người trên Trái Đất (Lý do tôi ở đây
là gì?); đó là ý nghĩa và mục đích của cuộc sống, lý giải trong Sách NÀY.
Sách Này là sự kiện khoa học thật. YODA là chữ viết tắt
của một cuốn sách đào tạo (hiệp sỹ JEDI).
George Lucas,
not understanding that he was being told telepathically, thinks that “Star
Wars” came from his
imagination, which is a perfectly normal human reaction, that many people have
had over the centuries. Rudyard Kipling thought that he wrote “IF”; Oscar Wilde
thought that he wrote “The Picture of Dorian Gray”; Joe Darian thought that he
wrote the words to “The Impossible Dream”, and the list is endless.
George Lucas, không
biết ông đã được truyền ý bằng thần giao cách cảm, nên nghĩ rằng
"Chiến Tranh giữa Các Vì Sao" đến từ trí tưởng tượng của mình, đó là
một phản ứng hoàn toàn bình thường của con người, rất nhiều người trước đây
cũng vậy. Rudyard Kipling nghĩ rằng ông đã viết "Nếu"; Oscar Wilde
nghĩ rằng ông đã viết "Chân Dung của Dorian Gray"; Joe Darian nghĩ
rằng ông đã viết ca từ của "Giấc mơ bất khả", và danh sách này thật
vô tận.
Although “Star
Wars” is set as sci-fi, in a distant galaxy, to make it entertaining, it
actually refers to this galaxy and life on Earth, and
contains the truth, which is
demonstrated symbolically.
What Luke
Skywalker learns, during the “Star Wars” films, Episodes IV-VI inclusive, is
what each and every one
of you HAS
to
learn, to be able to survive, get out of here and go HOME. Episodes
I-III are meaningless fiction.
Mặc dù "Chiến
Tranh giữa Các Vì Sao" được thiết lập giống phim khoa học viễn tưởng,
trong một thiên hà xa xôi, để tăng tính cuốn hút, nó thực ra đề cập đến thiên
hà này và cuộc sống trên Trái Đất, và nó cũng chứa đựng sự thật, đã
được thể hiện theo cách nói hình tượng.
Những gì Luke Skywalker học, trong các tập phim "Chiến Tranh giữa Các Vì Sao", tập IV-VI, là những gì mỗi một các con CẦN PHẢI học, để có thể sống sót, rời khỏi đây và Trở Về (NHÀ). Các tập I-III là những hư cấu vô nghĩa.
Những gì Luke Skywalker học, trong các tập phim "Chiến Tranh giữa Các Vì Sao", tập IV-VI, là những gì mỗi một các con CẦN PHẢI học, để có thể sống sót, rời khỏi đây và Trở Về (NHÀ). Các tập I-III là những hư cấu vô nghĩa.
Xem tiếp Chương 2
Download the FREE PDF version at: http://thewayhomeorfacethefire.net/
All correspondence please to jah@gibraltar.gi
or to:-
JAH, JAH Publications, P. O. Box 561, The Way Home - PMB 205, Gibraltar, (Via London).
Any support or donations to assist in our on-going research and promotion of "The Long Awaited Truth of All Things on Planet Earth" would be very much appreciated.
Any support or donations to assist in our on-going research and promotion of "The Long Awaited Truth of All Things on Planet Earth" would be very much appreciated.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét