Thứ Sáu, 25 tháng 3, 2016

CHAPTER 10. Mohammed and the birth of Islam as yet another religion. - Chương 10. Mohammed và sự ra đời của đạo Hồi, lại một tôn giáo nữa.


Mohammed and the birth of Islam as yet another religion.
Mohammed và sự ra đời của đạo Hồi, lại một tôn giáo nữa. 
 10:1 Once God had seen what Satan had done to Jesus’ teachings, with the birth of christianity, and its spreading and establishing, and the success that Satan was having, with yet another organized-religion, He decided to try, yet-again, to put people back on the right track.
 10:1 Thiên Chúa sau khi thấy Satan gây nhiễu loạn những giảng dạy của Giêsu, với sự ra đời của Kitô giáo, sự truyền bá và phát triển của nó, và sức ảnh hưởng Satan tạo dựng từ nó, một tổ chức tôn giáo nữa, Ngài quyết định thử lại, một lần nữa, để kéo mọi người trở về đường ngay.
10:2 After 600 years of so-called christianity developing, and people ignoring Jesus’ Message, God gave enlightenment to Mohammed, little by little, to try to pull the people away from organized-religions, and back to direct-contact with Himself.
10:2 Sau 600 năm của thứ gọi là sự phát triển của đạo thiên chúa/Kitô giáo, mọi người đã bỏ ngoài tai Thông Điệp của Giêsu, Thiên Chúa khai sáng cho Mohammed/Mô-ha-mét, từng chút một, để cố kéo mọi người ra khỏi các tổ chức tôn giáo, và trở về với việc giao tiếp trực tiếp với chính Ngài.
10:3 He chose the Arabs, because they were neither Jewish nor Christian, and the pagan-Arabs already worshipped the Morning Star (Al-Uzzah) as a divinity, and hopefully it would be easy to convert them from worshipping the star itself (Sura 53:49), to worshipping its King.
10:3 Ngài chọn người Ả Rập, bởi vì họ không phải người Do Thái hay Thiên Chúa giáo, và người Ả Rập cũng đã tôn thờ Ngôi Sao Mai (Al-Uzzah) như thần, thế nên hy vọng rằng việc thay đổi quan điểm của họ từ việc tôn thờ bản thân ngôi sao (Sura 53:49), sang tôn thờ Vị Vua của nó sẽ được dễ dàng hơn.
10:4 Also, the Arabs were nomadic-traders, with caravans that travelled extensively, and could thereby spread the word of God, far and wide.
10:4 Thêm nữa, người Ả Rập là các thương nhân du mục, với những đoàn lữ hành di chuyển rộng khắp, điều này sẽ thuận lợi cho việc truyền bá lời của Thiên Chúa.
10:5 Mohammed was around 40 years old when God called him, and, like all the other Prophets, was not a religious man; he just talked to God and did God’s Will, and, like all the other Prophets, he was a “child of God”, by adoption.
10:5 Mô-ha-mét ở vào khoản 40 tuổi khi Thiên Chúa gọi ông, và giống tất cả các nhà Tiên Tri, ông không phải là một người có đạo; ông chỉ giao tiếp với Thiên Chúa và làm theo Thánh Ý Ngài, và, giống tất cả các nhà Tiên Tri khác, ông được nhận để trở thành một "đứa con của Thiên Chúa".
10:6 Mohammed was not religious; he was just a believer, who strived himself, and taught the striving, to do God’s Will.
10:6 Mô-ha-mét không có đạo; ông chỉ là một người có đức tin, bản thân ông cố sức, và dạy sự phấn đấu, làm theo Thánh Ý Thiên Chúa.
10:7 God explained, through the Koran, that Abraham had not been religious, just a believer, like Mohammed. Both Abraham and Mohammed, like Jesus, were, and fought, against organized-religions, and were both just “children of God” (adopted).
10:7 Thiên Chúa đã giải thích, trong Sách Koran, rằng Áp-ra-ham không phải là người có đạo, chỉ là một người có đức tin, giống Mô-ha-mét. Cả Áp-ra-ham và Mô-ha-mét, giống Giêsu, đã đấu tranh, chống lại các tổ chức tôn giáo, và đều là "con cái của Thiên Chúa" (được nhận nuôi).
10:8 Unless you are “born again” in the spirit, and become like “little children”, you can NOT enter the Kingdom of Heaven (John 3:3-13 & Matt. 18:3-4).
10:8 Trừ khi các con "được tái sinh" trở lại làm thần hồn, và trở nên giống "trẻ thơ", các con KHÔNG thể vào được Vương Quốc của Thiên Chúa (Gioan/Giăng 3:3-13 & Mátt. 18:3-4). 
10:9 God gave some clearer explanations, of the creation of human animals (Adam and Eve), and Satan’s angels (Jinns) submitting themselves, to being reprogrammed, and being locked-inside of human -animals – bow down to Adams and Eves (Sura 7:11 & 15:31). It tells you that everyone, except Iblis (Lucifer/Satan), agreed to bow down to Adams and Eves.
10:9 Thiên Chúa đã giải thích cặn kẽ hơn, quá trình tạo thành các người động vật (A-đam và Ê-va), và các thiên thần thuộc phe Satan (Jinns) chịu để bản thân bị nhốt vào trong các thân xác người động vật đó - quy phục vào trong A-đam và Ê-va (Sura 7:11 & 15:31), để trải qua quá trình cải tạo. Tất cả các thiên thần sa ngã, ngoại trừ Iblis (lu-xi-phơ/Satan), đồng ý quy phục để vào trong A-đam và Ê-va.
10:10 Mohammed passed-on God’s Messages, to his students, who wrote them down, without understanding them, and no-one, since then, has really understood them, until I have come again now, to enlighten the WHOLE world, with THIS Book, as I promised that I would (Mark 13:10 & Luke 17:24).
10:10 Mô-ha-mét truyền đạt lại các Thông Điệp của Thiên Chúa,, cho các học trò của ông, sau đó những người này ghi chép lại, nhưng không thật sự hiểu, và chưa ai, từ đó về sau, thật sự hiểu những ghi chép đó, cho tới khi Ta trở lại, để khai sáng cho CẢ thế giới, với sách NÀY, như Ta đã hứa Ta sẽ làm (Máccô 13:10 & Luca 17:24).
10:11 God also explained that He had told Abraham, where Heaven is (Sura 6:76), and He told Mohammed too, but Mohammed did not understand either (Sura 52:49 - Evening and Morning Star; Sura 53:1 & 86:1), so the Lord told Mohammed, even more clearly, and also told him that He is Lord of Sirius, and of the seven heavens, and of the worlds (Sura 53:49 & 23:86 & 86:1-4), but he still did not understand.
10:11 Thiên Chúa cũng đã giải thích rằng Ngài đã nói cho Áp-ra-ham Thiên Đường ở đâu (Sura 6:76), và Ngài cũng đã nói cho Mô-ha-mét, nhưng Mô-ha-mét cũng không hiểu (Sura 52:49 - Sao Khuê [sao Hôm] và Sao Mai; Sura 53:1 & 86:1), Thiên Chúa đã nói cho Mô-ha-mét, thậm chí rõ ràng hơn, và Ngài còn nói cho ông rằng Ngài là Chúa Tể của Sao Thiên Lang, và của bảy tầng trời, và của các thế giới (Sura 53:49 & 23:86 & 86:1-4), nhưng ông cũng không hiểu.
10:12 The Lord told Mohammed exactly the same as Jesus had taught, which is NOT to worship Jesus, or Mohammed, or any other Prophet or Angel, and to worship ONLY God (Sura 3:79)(Mark 10:18 & Matt. 5:48), and NOT to be priests (Sura 57:27 & Sura 4:152)(Matt. 5:19 & 23:8).
10:12  Thiên Chúa cũng đã truyền đạt cho Mô-ha-mét đúng chính xác những gì Giêsu đã giảng giải, đó là KHÔNG tôn thờ Giêsu, hay Mô-ha-mét, hay một nhà Tiên Tri nào khác hay một Thiên Thần nào, và CHỈ làm vậy với Thiên Chúa mà thôi (Sura 3:79)(Máccô 10:18 & Mátt 5:48), và KHÔNG trở thành hay làm cha đạo, mục sư .... (Sura 57:27 & Sura 4:152)(Mátt. 5:19 & 23:8).
10:13 God told Mohammed, that organized-religion is wrong, and that the dividing into sects was wrong (and always will be) (Sura 2:62 & 2:112), and that ALL people, from ALL over the world, from WHATEVER nation, colour or creed, who REALLY believe God, and KEEP His COMMANDMENTS, AND COVENANT (Sura 5:8-16, 73 & 6:152 & 8:58 & 16:91, 95), and DO His Will, shall be saved from “The Fire” on the Last-Day (Sura 2:62 & 42:13)(Matt. 12:50 - and the twelve tribes of Israel is not meant only literally, it refers literally and metaphorically, to all the “children of God”, who are grafted into the 12 Tribes of Israel).

10:13 Thiên Chúa đã nói với Mô-ha-mét, rằng tổ chức tôn giáo sai, và rằng việc phân giáo thành các hệ chi phái khác nhau là sai (và luôn luôn như vậy)(Sura 2:62 &2:112), TẤT CẢ những ai, từ khắp MỌI NƠI trên thế giới, ở BẤT KỲ quốc gia nào, màu da hay sắc tộc nào, những ai THẬT SỰ tin Thiên Chúa, và GIỮ các ĐIỀU RĂN của Ngài, VÀ GIAO ƯỚC (Sura 5:8-16, 73 & 6:152 & 8:58 & 16:91, 95), LÀM theo Thánh Ý Ngài, sẽ khỏi phải nếm mùi "Hồ Lửa" vào Ngày Phán Xét (Sura 2:62 & 42:13)(Mátt. 12:50 - và mười hai chi tộc Ít-ra-en không chỉ có nghĩa đen, nhưng hàm ý cả nghĩa đen nghĩa bóng, nói đến tất cả "con cái của Thiên Chúa", những ai dần dần ghép vào 12 chi tộc đó).
10:14 The word “Israelite” means “champion of God” - “THOSE WHO DO GOD’S WILL”. It does NOT refer to the Israeli nation of today, or the Jews, it refers to “THOSE WHO DO GOD’S WILL”, i.e. the “children of God.” Anyone who DOES God’s Will, (champions His Cause) not his own, is a “child of God” by adoption, or, “Israelite” (in Hebrew).

10:14  Từ "dân Ít-ra-en" có nghĩa là "nhà vô địch của Thiên Chúa" - "NHỮNG AI LÀM THEO THÁNH Ý CỦA THIÊN CHÚA". Điều này KHÔNG nói tới đất nước Ít-ra-en như được biết hiện nay, hay dân Do Thái, nó nói về "NHỮNG AI LÀM THEO THÁNH Ý CỦA THIÊN CHÚA", "con cái của Thiên Chúa". Những ai LÀM THEO Thánh Ý của Thiên Chúa,(những nhà vô địch làm việc cho Thiên Chúa), không phải ý riêng, thì được nhận làm "con của Thiên Chúa", hay, còn được gọi là "dân Ít-ra-en" (trong tiếng Hê-bơ-rơ).
ARMAGEDDON SURVIVAL-KIT CD available from http://JAHTruth.net/ask
10:15 By telling Mohammed, that Abraham had been a “child of God”, and that Jesus was a “child of God”, and that Mohammed must be a “child of God”, He was trying to get the Arabs to unite the world, into one brotherhood (Sura 2:62 & 42:13 & 49:10), and to destroy ALL organized-religions, and divisions (amongst believers), and to unite EVERYONE into one brotherhood. ALL of whom must talk directly, individually and in PRIVATE, to God, and DO God’s Will.

10:15 Bằng cách nói cho Mô-ha-mét, rằng Áp-ra-ham là "con của Thiên Chúa", và rằng Giêsu là "con của Thiên Chúa", và rằng Mô-ha-mét cần phải trở thành "con của Thiên Chúa", Ngài đã cố dùng người Ả rập để đoàn kết thế giới, làm anh em một nhà (Sura 2:62 & 42:13 & 49:10), và để xóa sổ TẤT CẢ các tổ chức tôn giáo, và các nguyên nhân gây chia rẽ (giữa những ai có đức tin). và đoàn kết MỌI NGƯỜI trong tình anh em một nhà. TẤT CẢ các con dân đó phải giao tiếp với Thiên Chúa, trực tiếp, mỗi một cá nhân, và ở một nơi RIÊNG TƯ, và LÀM theo Thánh Ý của Ngài
10:16 God said you MUST read and believe “ALL” the messages from God, and NOT just the PART that YOU think you have been sent (Sura 2:91 & 42:15). That included Mohammed (and ALL Moslems); so ALL believers MUST read the Book (Torah/Old COVENANT), the Gospel (New COVENANT), the Koran (Sura 42:15), and this Book (The Way home or face The Fire)(Sura 16:101-104 & Sura 4:136).

10:16 Thiên Chúa đã nói các con PHẢI đọc và tin "TẤT CẢ" những thông điệp từ Thiên Chúa, KHÔNG phải chỉ PHẦNCÁC CON nghĩ các con được nhận (Sura 2:91 & 42:15). Điều này bao gồm cả Mô-ha-mét (và TẤT CẢ cộng đồng Hồi Giáo), TOÀN THỂ những ai có đức tin PHẢI đọc Sách (Torah/Cựu Ước), các Phúc Âm (Tân Ước/HỢP ĐỒNG mới), Sách Koran (Sura 42:15), và cả Sách này (Đường Về hay đối mặt Hồ Lửa)(Sura 16:101-104 & Sura 4:136).
10:17 God enlightened Mohammed, and he taught exactly the same teachings as Jesus, with one exception, i.e. “I am The Way”, because Mohammed was not The Way. Mohammed was just a messenger, and not THE example to follow, just as all the other Prophets had only been messengers, and none were resurrected from the dead, or would come again.

10:17 Thiên Chúa đã khai sáng cho Mô-ha-mét, và ông giảng dạy chính xác giống như Giêsu, chỉ một điều không có, đó là "Ta là Đường Về", bởi vì Mô-ha-mét không phải là Đường Về. Mô-ha-mét chỉ là một sứ giả đưa tin, và không phải là GƯƠNG làm mẫu để các con noi theo, tương tự như các nhà Tiên Tri khác cũng đều chỉ là những sứ giả đưa tin, và không ai được phục sinh sau khi chết, hay tái lâm.
10:18 ALL the Prophets, except Jesus and Elijah, were your fellow prisoners, who received messages and enlightenment. Many of the Prophets wrote down God’s messages, without understanding them (Dan. 12:8 & Isaiah 29:11), or at least some of God’s messages, and this includes Mohammed.

10: 18 TẤT CẢ các Nhà Tiên Tri, ngoại trừ Giêsu và Eli-Jah, đều là các tù nhân trong hành tinh này, họ nhận được các thông điệp và sự khai sáng. Nhiều Nhà Tiên Tri chỉ viết xuống các thông điệp của Thiên Chúa, nhưng không hiểu chúng (Dan. 12:8 & Ê-sai 29:11), hoặc không hiểu một số thông điệp, bao gồm cả Mô-ha-mét.
10:19 Mohammed was told about re -incarnation, when God said that the souls had had many chances, “if only they had known” (Sura 23:99, 114 & 2:154), and also that parents are NOT the parents of your soul, and that ANYONE who loves father or mother, son or daughter, more than God, is not WORTHY of God (Sura 4:135 & 9:23-24 & 58:22, just like in Matt. 10:34-40).

10:19 Mô-ha-mét được cho biết về luân hồi, khi Thiên Chúa nói các linh hồn đã nhận được nhiều cơ hội, "giá như họ được cho biết điều đó" (Sura 23:99, 114 & 2:154), và rằng cha mẹ con KHÔNG phải là cha mẹ của linh hồn con, và rằng NHỮNG AI yêu quý cha mẹ, con cái họ, hơn Thiên Chúa (tình yêu, sự thật, và những gì tốt đẹp), thì KHÔNG XỨNG ĐÁNG với Thiên Chúa (Sura 4:135 & 9:23-24 & 58:22, cũng giống như trong Mátt. 10:34-40).
10:20 God told Mohammed that the Earth is a prison, for those who reject faith in, and love for, God (Sura 17:8 & 83:7), and that souls MUST STRIVE for their salvation, and their right to go home (Sura 29:6).

10:20 Thiên Chúa đã nói cho Mô-ha-mét biết Trái Đất là một nhà tù, cho những ai từ chối đức tin vào, và tình yêu dành cho, Thiên Chúa (Sura 17:8 & 83:7), và rằng các linh hồn PHẢI CỐ PHẤN ĐẤU để nhận được sự cứu rỗi của họ, và nhận lại quyền được trở về nhà (Sura 29:6).
10:21 The Lord told him, that, on the Last-Day, the human-animals, that had been used by the souls, would be witnesses for, or against, the souls that had used them, depending on whether they had been used for good (God), or for evil (devil)(Sura 41:20-22).

10:21 Thiên Chúa đã nói với ông, rằng, vào Ngày Phán Xét, các người động vật, mà đã được sử dụng bởi các linh hồn, sẽ làm chứng cho, hay chống lại, những linh hồn đã dùng chúng, tùy thuộc vào việc chúng được sử dụng để làm việc thiện (Thiên Chúa), hay làm việc gian dối (ma quỷ)(Sura 41:20-22).
10:22 On the Last-Day, everyone shall be known by his mark (Sura 7:46), just as in John’s Revelation 14:9-11, and shall be judged according to his mark. Those who wear the mark of God, in their foreheads, i.e. communicating telepathically with Him, keeping the COMMANDMENTS, and also DOING His Will - blind faith and using the eyes of their soul (3rd. eye), and “The Force” – shall survive, and those who wear the mark of Satan, in their hands, i.e. money and worldly treasures, shall die in “The Fire”.

10:22 Vào Ngày Cuối, chúng ta sẽ được nhận biết bởi dấu ấn ta mang (Sura 7:46), giống như trong Khải Huyền của Gioan/Giăng 14:9-11, và sẽ bị phán xét dựa trên ấn dấu đó. Những ai mang phong ấn của Thiên Chúa, trên trán họ, giao tiếp trực tiếp bằng thần giao cách cảm với Ngài, giữ các ĐIỀU RĂN, LÀM theo Thánh Ý Ngài - với đức tin tuyệt đối và sử dụng tâm nhãn của linh hồn họ (con mắt thứ 3), và "Thần Lực/Dòng năng lượng" - thì sẽ sinh tồn, và những kẻ mang phong ấn của Satan, trên tay, ví dụ tiền tài và của cải vật chất thế gian, sẽ chết trong "Hồ Lửa".
10:23 Mohammed taught exactly the same as Jesus. God’s message has ALWAYS been the same, and always will be, just as God has ALWAYS been and ALWAYS will be the same (Alpha and Omega – the beginning and the end), and ALL the Prophets have said the same thing.

10:23 Những giảng dạy của Mô-ha-mét cũng giống như giảng dạy của Giêsu. Thông điệp của Thiên Chúa MÃI MÃI không đổi, và sẽ mãi như vậy, cũng giống như Thiên Chúa MÃI MÃI đã là và sẽ MÃI MÃI bất biến (An-pha và Ô-mê-ga - khởi đầu và kết thúc), và TẤT CẢ các Nhà Tiên Tri cũng đều nói như vậy.
10:24 God gave enlightenment to Mohammed, about Jesus, “the son of Mary”, but Mohammed did not understand what God was telling him. God told Mohammed, that, “the son of Mary”, was not His Son, which is perfectly true, just as I am not the son of my present mother. My present mother’s body made the body, that I am using this time, but she did NOT make me.

10:24 Thiên Chúa ban sự khai sáng cho Mô-ha-mét, về Giêsu, "con trai của Maria", nhưng Mô-ha-mét đã không hiểu những gì Thiên Chúa nói với ông. Thiên Chúa đã nói với Mô-ha-mét, rằng, "con trai của Maria", không phải là Con Trai Ngài, điều này chính xác hoàn toàn, cũng giống như Ta không phải là con trai của người mẹ hiện nay của ta. Thân xác người của người mẹ hiện nay của ta tạo nên thân xác của ta, thứ mà Ta đang dùng lần này, nhưng bà KHÔNG tạo ra Ta (phần hồn - Linh Dạng Thật).
10:25 My soul, which is the REAL me, came down from heaven, just like the last time, 2000 years ago. God’s Son is Prince Michael (the ARCH-ANGEL) - Christ; was Jesus ( Christ) The Nazarite; is ME, who was the spirit/soul locked-inside “the son of Mary”, which was a human-animal, created by Mary’s body, with a little help from my Father (the Immaculate Conception). I used the “son of Mary”, so that people could see and hear me, so I could give the demonstration of how YOU have to be, before you can go home, just as I am now using this body, for the same reason. I controlled “the son of Mary” and used him, from within, for the benefit of everyone, which is what you all HAVE TO DO, with the animal bodies that YOU are using.

10:25 Linh Hồn Ta, thứ THẬT SỰ là Ta, xuống từ Thiên Đàng, cũng giống như lần trước, vào 2000 năm trước đây. Con Trai của Thiên Chúa Hoàng Tử Mai-cồ (Thiên Sứ Trưởng) - Chúa; (Chúa) Giêsu Na-gia-rét; là TA, linh thần/linh hồn bên trong "con trai của Maria", một người động vật, được tạo nên bởi cơ thể người Maria, với sự giúp đỡ từ Cha ta (Sự Thụ Thai bằng Quyền Năng của Thánh Thần). Ta đã dùng "con trai của Maria", để mọi người có thể thấy và nghe ta, để Ta có thể làm mẫu những gì CÁC CON phải học theo, trước khi các con có thể trở về nhà, cũng giống như Ta đang dùng thân xác người hiện nay, cũng bởi cùng một nguyên do. Ta điều khiển "con trai của Maria" và dùng ông, từ bên trong, vì lợi ích chung của mọi người, đó cũng là điều tất cả các con PHẢI THỰC HIỆN, với các thân xác người CÁC CON đang sử dụng.
10:26 God said (in the Koran) that the MAN Jesus (human body NOT the soul) was not His Son (because God is not a human, and therefore can not have a human-son), not the spirit/soul within the man. God told a great many people, on various occasions, in the New Testament, that Christ, the spirit within the hu-MAN-animal, was “His beloved Son, in whom He was, and still is, well pleased,” and God NEVER lies (Matt. 3:17 & 17:5 & Mark 1:11 & 9:7 & Luke 3:22 & 9:35)(Sura 4:171).

10:26 Thiên Chúa đã phán dạy (ghi chép trong Kinh Thư Koran) rằng NGƯỜI ĐÀN ÔNG Giêsu (nói về phần người KHÔNG phải linh hồn) không phải Con Trai Ngài (bởi Thiên Chúa không phải là người phàm, và do vậy không thể có con trai là người được), điều được đề cập đó không phải nói về phần hồn/linh thần bên trong Giêsu. Thiên Chúa cũng nói cho rất nhiều người, vào nhiều thời điểm khác nhau, trong Tân Ước, rằng Chúa, linh thần bên trong cơ thể người ĐÀN ÔNG đó, là "Con Trai thương yêu của Ngài", là vị mà Ngài đã và vẫn đang, rất đẹp lòng," nên nhớ Thiên Chúa KHÔNG BAO GIỜ nói dối (Mátt. 3:17 & 17:5 & Máccô 1:11 & 9:7 & Luca 3:22 & 9:35)(Sura 4:171).
ARMAGEDDON SURVIVAL-KIT CD available from http://JAHTruth.net/ask

CD CẨM NANG SINH TỒN TẬN THẾ, http://JAHTruth.net/ask.
10:27 Christ did not die on the cross, the human-animal-body being used, called Jesus the Nazarite, the “son of Mary”, died (Sura 4:157).

10:27 Chúa không chết trên thập tự, thân xác người phàm đã được sử dụng, được gọi là Giêsu Na-za-rét, "con trai của Maria", chết (Sura 4:157).
YOU ARE NOT HUMAN !!!
CÁC CON KHÔNG PHẢI LÀ NGƯỜI PHÀM!!!
10:28 There are two possibilities, about the mis-understanding, concerning Jesus, because Mohammed could neither read nor write, and he did NOT write the Koran, or read it to check that it was correct, because he was NOT ABLE TO.

10:28 Có hai khả năng, về sự hiểu lầm này, liên quan tới Giêsu, là bởi Mô-ha-mét không biết đọc và viết, và ông KHÔNG tự mình chép lại Kinh Koran, hay đọc lại để kiểm tra, bởi vì ông KHÔNG CÓ KHẢ NĂNG LÀM VẬY
10:29 The first possibility, is that Mohammed himself did not understand what God was telling him, because Mohammed was a simple and un-educated man, but was kind, honest and humble.

10:29 Khả năng đầu, là có thể chính Mô-ha-mét không hiểu những gì Thiên Chúa truyền đạt cho ông, bởi vì Mô-ha-mét là một người đàn ông với đầu óc đơn giản và không học qua trường lớp nào, nhưng ông tử tế, trung thực và khiêm nhường.
10:30 The second possibility, is that Mohammed did understand what God was telling him (which is unlikely with the world’s level of mentality at that time), but that his students did not understand, and wrote his message down incorrectly, and Mohammed, not being able to read, did not know.

10:30 Ở khả năng thứ hai, Mô-ha-mét hiểu những gì Thiên Chúa truyền đạt cho ông (điều này khó có thể xảy ra dựa trên trình độ nhận thức thời đó), nhưng các học trò của ông không hiểu, và ghi chép các thông điệp không đúng những gì ông truyền đạt, và vì Mô-ha-mét không biết đọc, nên không thể kiểm tra.
10:31 In any case, the Koran was compiled and published after Mohammed’s death, and it is possible, that Mohammed half-understood, and that his students worshipping him, instead of God; in direct disobedience of God’s and Mohammed’s teaching; did the rest; probably under instructions from Caliph Omar; to try to make Mohammed more important than Jesus. So now the Moslems do not follow Jesus’ example, as the Koran says they should do (Sura 4:159).

10:31 Nói gì đi nữa, Sách Koran được biên soạn và xuất bản sau khi Mô-ha-mét qua đời, và có khả năng, Mô-ha-mét chỉ hiểu một nửa, và các học trò của ông chọn tôn thờ ông, thay vì Thiên Chúa, đối lập với Giảng Dạy của Thiên Chúa và của Mô-ha-mét, đã gây ra chuyện hiểu lầm đó, có thể là do dưới sự dẫn dắt của Khalip Omar, khi ông này cố nâng tầm của Mô-ha-mét lên thành quan trọng hơn so với Giêsu. Đến ngày nay người Hồi Giáo không theo gương Giêsu, ngược lại với ghi chép của Koran, nói rằng họ phải làm như vậy (Sura 4:159).
10:32 The Devil’s telepathic voice (enemy-within), within the heads of Mohammed or his students (see chapter 3), deceived them, and managed to twist this message perfectly, and Satan has exploited this point, with great success, for hundreds of years. It has been one of his most efficient tricks, so far, and has kept people fighting, and killing each other, ever since (in God’s name?) . Just HOW STUPID can people be? They all worship the same God (Who COMMANDS them NOT to murder), and are murdering each other for Satan, and are using and abusing God’s name to do it. 

10:32 Tiếng nói của Ma Quỷ (kẻ thù bên trong), trong đầu của Mô-ha-mét hay các học trò của ông (xem chương 3), đã lừa ghạt họ, và đã thành công trong việc bóp méo thông điệp đó, và Satan đã khai thác điểm này, với thắng lợi rực rỡ, qua hàng trăm năm. Chuyện này đã thành một trong những chiêu trò hiệu quả nhất của hắn, cho tới ngày nay, và đã làm cho người ta giết hại lẫn nhau, từ đó tới giờ (nhân danh Thiên Chúa?). Qua chuyện này ta thấy được SỰ NGU DỐT của con người thật không đáy? Họ thờ cùng một Thượng Đế (Đấng RĂN DẠY họ KHÔNG giết người), nhưng lại đang giết hại lẫn nhau cho Satan, trên danh nghĩa Thiên Chúa (Thượng Đế) và đang lạm dụng danh của Thiên Chúa để làm vậy. 

10:33 I really find it hard, to believe that people can be THAT stupid, but I know, for a fact, that they are.

10:33 Thật là khó tin con người có thể ngu ngốc NHƯ VẬY, nhưng ta biết, qua kiểm chứng, rằng đúng là như vậy thật
10:34 The problem, that the Moslems have, is that, because Satan has tricked them into worshipping Mohammed, and believing that he is the ONLY Prophet of real value, they have no direction, nor the example, to follow, and they have been running in circles, ever since.

10:34 Vấn đề, mà người Hồi Giáo gặp phải, là, bởi vì Satan đã ghạt họ vào việc tôn thờ Mô-ha-mét, và tin rằng ông là Nhà Tiên Tri DUY NHẤT có trọng lượng, họ không có hướng đi, hay một hình mẫu, để noi theo, và họ đang chạy lòng vòng, từ đó tới nay. 
10:35 Jesus and Mohammed BOTH taught the DOING of God’s Will, but; without having the example to follow; the Moslems do not know which way is forwards, and Jesus; whom they will not accept; is THE example - “I AM The Way (home)” - that EVERYONE on Earth MUST follow, whilst DOING God’s Will, in learning SELF-sacrifice, and becoming unselfish (Sura 4:159). 

10:35  Giêsu và Mô-ha-mét ĐỀU dạy việc LÀM THEO Thánh Ý của Thiên Chúa, nhưng, vì không có một hình mẫu để noi theo, người Hồi Giáo không biết làm sao để đi tới, và Giêsu, người họ không chấp nhận, chính là Gương ĐÓ - " TA LÀ Đường Về (nhà)" - mà MỖI MỘT các con trên Trái Đất PHẢI theo, trong khi THỰC HIỆN Thánh Ý của Thiên Chúa, trong khi học vì nghĩa quên thân (diệt trừ CÁI TÔI) và trở nên hướng thiện không ích kỷ tư lợi (Sura 4:159).

10:36 Mohammed and Jesus BOTH preached the same message, which is: that ALL organized-religion is EVIL, and that you MUST do God’s Will, NOT your own, and that you MUST talk to God DIRECTLY; INDIVIDUALLY ; PRIVATELY and CONSTANTLY (Matt. 6:6)(Sura 7:55). 

10:36 Mô-ha-mét và Giêsu ĐỀU truyền đạt cùng một thông điệp, đó là, TẤT CẢ các tổ chức tôn giáo đều SAI TRÁI, và rằng các con PHẢI làm theo Thánh Ý của Ngài, KHÔNG phải ý muốn của riêng bản thân các con, và các con PHẢI TỰ MÌNH, TRỰC TIẾP nói chuyện với THIÊN CHÚA, MỘT CÁCH RIÊNG TƯ và LIÊN TỤC (Matt. 6:6)(Sura 7:55).

10:37 If Christ is not the Son of God - the spirit, not the man – then why is Christ coming again, and not Mohammed, or any of the other Prophets? (Sura 43:61).

10:37 Nếu như Chúa không phải là Con Trai của Thiên Chúa - nói về phần hồn, không phải phần xác thịt - thì tại sao Chúa tái lâm, và không phải là Mô-ha-mét, hay một nhà Tiên Tri nào khác? (Sura 43:61).
10:38 The Moslems worship Mohammed, which is totally against the Koran and Mohammed’s teachings (Sura 3:79), even though they deny it.

10:38 Người Hồi Giáo tôn thờ Mô-ha-mét, là điều trái ngược với Kinh Koran và những giảng dạy của Mô-ha-mét (Sura 3:79), ngay cả khi họ chối tội.
10:39 The Moslems’ belief in Mohammed and the HADITH, instead of God’s Truth, in His Koran, is totally illogical, as is their belief that Mohammed is more important than God’s Son. It is illogical, because; if it were true; then surely God would send Mohammed again, instead of which, He is sending Christ, AS IT SAYS IN THE KORAN (Sura 43:61). The Koran also says that Christ will come WITHOUT RELIGION (to destroy organized-religions, and the FALSE doctrines that abuse His name).

10:39 Niềm tin của người Hồi Giáo vào Mô-ha-mét  và sách HADITH, thay vì Sự Thật của Thiên Chúa trong Sách Koran của Ngài, là hoàn toàn phi lô-gíc, khi niềm tin của họ có nghĩa Mô-ha-mét thì quan trọng hơn cả Con Trai của Thiên Chúa. Nó phi lý, là bởi vì, nếu điều đó là sự thật, thì chắc hẳn Thiên Chúa sẽ phải gởi Mô-ha-mét trở lại, nhưng thay vào đó, Ngài gởi Chúa, NHƯ ĐÃ ĐƯỢC GHI CHÉP TRONG KORAN (Sura 43:61). Sách Koran cũng chép rằng Chúa sẽ đến KHÔNG CÙNG MỘT TÔN GIÁO NÀO CẢ (để hủy bỏ các tổ chức tôn giáo, với các giáo lý SAI SỰ THẬT lạm dụng danh ngài).
10:40 Just like the last time, God could not entrust such an important mission to just anyone, or to an enlightened prisoner (Prophet). He would only give the mission to His eldest Son, whom He can trust completely, i.e. Prince Michael/Christ (Michael the Archangel).

10:40 Cũng giống như lần trước, Thiên Chúa không thể tin tưởng giao phó nhiệm vụ quan trọng như vậy cho ai khác, thậm chí một tù nhân đã được khai sáng (Nhà Tiên Tri). Ngài chỉ tin tưởng giao phó nhiệm vụ đó cho Con Trai Trưởng của Ngài, đấng Ngài có thể tin tưởng hoàn toàn, đó là Hoàng Tử Mai-cồ/Chúa (Mai-cồ Thiên Sứ Trưởng). 
10:41 God Himself, through the Koran, has said that Christ will come again, JUST BEFORE the Last-Day, as a last warning of the doom that IS COMING (Sura 43:61 & 52:1-16).

10:41 Chính Thiên Chúa, trong Sách Koran, đã nói rằng Chúa sẽ tái lâm, CHỈ TRƯỚC ngày Phán Xét, như là lời cảnh báo cuối về sự diệt vong ĐANG TỚI (Sura 43:61 & 52:1-16).
10:42 In the same way that Satan turned Jesus’ teachings into a religion, and called it Christianity, he turned Mohammed’s teachings into yet another religion, and called it Islam.

10:42 Cũng với cùng cách thức mà Satan đã dùng để biến những giảng dạy của Chúa thành một tôn giáo, và gọi nó là Ki-tô giáo, hắn đã biến các giảng dạy của Mô-ha-mét thành một tổ chức tôn giáo khác, và gọi nó là Hồi Giáo. 
10:43 Islam, as an organized-religion, is against the teachings of the Koran.

10:43 Islam/Ixlam, một tổ chức tôn giáo, đi ngược lại những giảng dạy trong Koran.
10:44 The Arabic word islam means “absolute submission to the Will of God,” which is wrong, because God does not want souls to SUBMIT to His Will; He wants them to WANT to do His Will, joyfully, and to keep asking Him, ALL the time, to tell them what He wants them to do next.

10:44 Từ islam trong tiếng Ả Rập có nghĩa là "khuất phục một cách tuyệt đối Thánh Ý của Thiên Chúa," là sai, bởi vì Thiên Chúa không muốn các linh hồn KHUẤT PHỤC Thánh Ý của Ngài; Ngài muốn các linh hồn MUỐN làm theo Thánh Ý của Ngài, một cách vui vẻ, và tiếp tục hỏi Ngài, MỌI lúc, hãy nói với họ Ngài muốn họ thực hiện điều chi tiếp theo. 
10:45 However, the word islam, which means DOING God’s Will, has now become just the name, of yet another organized-religion, instead of saying what YOU should do.

10:45 Tuy nhiên, từ islam, mà có nghĩa ĐANG LÀM theo Thánh Ý của Thiên Chúa, đã trở thành chỉ đơn thuần là một tên gọi, và cũng là một tổ chức tôn giáo khác, thay vì có nghĩa là những gì CÁC CON nên làm
10:46 God initially helped Abraham and his line, to win battles, in order to spread His Word. Later-on, He helped the Romans to conquer the known world, in preparation for the spreading of Christ’s teachings. God made Paul (Saul) blind, and then gave him back his sight, and made him His most efficient and widest-travelling messenger.

10:46 Thiên Chúa ban đầu giúp đỡ Áp-ra-ham và dòng dõi của ông, thắng các cuộc chiến, để có thể truyền bá lời Ngài. Sau này, Ngài giúp đỡ người La Mã chinh phục phần thế giới được biết tới, để chuẩn bị cho việc truyền bá những giảng dạy của Chúa. Thiên Chúa làm cho Phaolô (Saul) mù, và sau đó trả lại ánh sáng cho ông, và biến ông thành sứ giả đưa tin có hiệu quả nhất, đi xa và nhiều nhất của Ngài. 
10:47 Similarly, God helped the followers of His teachings, in the Koran (Arabs), to conquer many countries; most of which had become Roman Catholic; to spread the word and counteract the spread of Roman Catholicism, with its idolatry, blasphemy and other evils.

10:47 Tương tự, Thiên Chúa giúp đỡ những ai theo giảng dạy của Ngài, trong Sách Koran (người Ả Rập), chinh phục nhiều nước, hầu hết là các nước chịu ảnh hưởng của Công Giáo La Mã, để truyền bá lời Ngài và chống lại sự lan rộng của Công Giáo La Mã, với sự sùng bái hình tượng, những lời báng bổ các sai trái khác của nó. 
10:48 Unfortunately, the word islam has LOST ITS MEANING, and has just become the name, of yet another evil, organized-RELIGION!

10:48 Không may thay, từ islam đã MẤT Ý NGHĨA THẬT CỦA NÓ, và chỉ còn lại danh xưng (vỏ), và cũng đã trở thành một tổ chức TÔN GIÁO sai trái khác.  


PREFACE

Từ “Những Điều Thiết Yếu” của cuộc sống.


The Way home
“The soul’s guide back to heaven.”
CONTENTS.
Chapter 1. “Before the Beginning” (of human-life on Earth).
Chapter 2. “The Prison Reform School with no bars.” Earth/Hell.
Chapter 3. “The Creation of Human-Animals.”
Chapter 4. “The First Test and regression to following Lucifer.”
Chapter 5. “A Fresh-Start.” —— The choosing of Noah.
Chapter 6. “Abraham, Lot and Sodom and GomorrEah.”
Chapter 7. “The Choosing of Abraham and his Line.”
Chapter 8. “The Shining Example.” (The Light of the World.)
Chapter 9. “The Birth of Christianity as yet another religion.”
Chapter 10. “Mohammed and the Birth of Islam as yet another religion.”
Chapter 11. “Satan’s use of Religions to Divide, Conquer and Rule.”
Chapter 12. “Prince Michael/Christ comes again.”
Chapter 13. “Unlucky for some (most?).”



Đường Về 
"Hướng dẫn linh hồn cách về lại thiên đàng."
NỘI DUNG.

Chương 1.  "Trước cả Sự Bắt Đầu" (của cuộc sống con người trên Trái Đất).

Chương 2. "
Trường Cải Tạo không song sắt." TráiĐất/Địa ngục.
Chương 3. "
Sự Tạo Thành các Người - Động vật"
Chương 4. "
Thử Thách Đầu và Việc Đi Lùi theo Lucifer."
Chương 5. "
Một Khởi Đầu Mới.” —— Lựa Chọn Noah.
Chương 6. "
Abraham (Áp-ra-ham), Lot(Lót) và Sodom (Sô-đôm) và GomorrEah (Gô-mô-rơ)"
Chương 7. "
Lựa Chọn Áp-ra-ham và Hậu Duệ."
Chương 8. "
Gương Sáng." (Ánh Sáng củaThế Giới)
Chương 9. "Sự ra đời của Kitô giáo, lại một tôn giáo khác.
"
Chương 10. "
Mohammed và sự ra đời của đạo Hồi, lại một tôn giáo nữa."
Chương 11. "
Satan sử dụng tôn giáo để chia rẽ, chinh phục và thống trị."
Chương 12. "
Hoàng tử Michael /Chúa Kitô lại đến."
Chương 13. "Không may mắn
cho một số (hầu hết?)."